Võ Động Thiên Hà Prc

Võ Động Thiên Hà Prc Full

Võ Động Thiên Hà

Đoan Nguyệt

Hắn tên là Vân Thiên, một xử nam luôn tìm cách phá thân nhưng vì nhiều nguyên nhân khác nhau, luôn đúng lúc quan trọng nhất lại thất bại! Vô cùng buồn bực trở lại thăm gia gia của hắn, người suốt quãng đời ấu thơ đã ảnh hưởng rất sâu đậm tới hắn, dạy võ công cho hắn. Nhưng buồn thay, gia gia hắn đã đi đến điểm cuối cuộc đời. Trước khi chết, gia gia hắn hỏi hắn còn là xử nam hay không và rất vui mừng đưa cho hắn bộ bí tịch Vô Lượng Tinh Kinh, yêu cầu trước khi tu luyện thành công không được phá thân. Nhưng kết quả vì bộ Vô Lượng Tinh Kinh này đã đưa tới họa sát thân và hắn xuyên qua… Cấp bậc võ thuật: Võ Sĩ, Võ Sư, Tiên Thiên Võ Sư, Tông Sư, Võ Thánh… Bộ truyện này kết hợp giữa võ thuật hoàng tráng và đấu tranh chính trị trong triều đình. Yếu tố đầu óc cũng như võ thuật được kết hợp rất nhuần nhuyễn, hứa hẹn nhiều điều thú vị

Download: Võ Động Thiên Hà Prc Full

Sau khi nhấn vào link download. Trình duyệt sẽ mở trang adf.ly, sau đó bạn chỉ cần đợi 5s là sẽ thấy nút "bỏ qua quảng cáo" màu vàng ở phía trên góc phải.

Cầm Đế - Thầm Âm Prc Full

Cầm Đế - Thầm Âm Prc Full

Cầm Đế - Thần Âm

Đường Gia Tam Thiếu

Truyện từng được xếp thứ 3 sau Thần mộ và Cực phẩm gia đinh ở trang Bạch Mã Thư Viện, nếu là fan của Đường Gia Tam Thiếu thì chắc chắn không thể bỏ qua.

Download: Cầm Đế (Thần Âm) Prc Full

Sau khi nhấn vào link download. Trình duyệt sẽ mở trang adf.ly, sau đó bạn chỉ cần đợi 5s là sẽ thấy nút "bỏ qua quảng cáo" màu vàng ở phía trên góc phải.

Trọng Sinh Truy Mỹ Ký Prc

Trọng Sinh Truy Mỹ Ký Prc Full

Trọng Sinh Truy Mỹ Ký

Ngư Nhân Nhị Đại


Lưu Lỗi tham gia hôn lễ của người yêu mình là Triệu Nhan Nghiên, trong lúc say rượu bất hạnh bỏ mình.
Ngoài ý muốn, hắn được trọng sinh, hắn quyết tâm làm lại cuộc đời, từ bỏ kiếp trước đầy hèn kém.
Trọng sinh có giúp hắn nắm chắc được số phận của đời mình, kết nhân duyên với Triệu Nhan Nghiên hay không?
Giọng văn sẽ có chút YY, đảm bảo mọi người sẽ thích thú.
Về Lưu Lỗi sau khi trọng sinh có mấy lão bà, ta đảm bảo hắn sẽ không chỉ có một mình Triệu Nhan Nghiên.
Về phần sự nghiệp, hắn thành có đạt không? Đảm bảo là có, vì không có tiền sao câu được mỹ nữ.
Tên là truy mỹ, nhưng không đơn thuần là truy mỹ, truyện kết cấu có tình cảm xuất phát từ tự nhiên, có tình cảm gia đình, có tình cảm thân nhân bạn bè, có quyền thế chức vụ, có minh tranh ám đấu, có cố gắng của nhân vật chính, truyện chỉ YY khi miêu tả cao trào của tình cảm. Sẽ không uổng công bất cứ một độc giả nào đọc nó.
Giọng văn của tác giả hài ước, nhưng lại không thiếu tình cảm bi lệ hào hủng.
Nếu ai đã đọc Đỉnh cấp lưu manh, thì không thể bỏ qua truyện này, truyện không phải là bản sao của Đỉnh cấp, nhưng sẽ mang lại tâm trạng kích thích, khoái cảm, ngậm ngùi, bội phục như đọc Đỉnh cấp lưu manh và Cực Phẩm Gia Đinh.
Mời đón xem!!!

Download: Trọng Sinh Truy Mỹ Ký Prc Full

Sau khi nhấn vào link download. Trình duyệt sẽ mở trang adf.ly, sau đó bạn chỉ cần đợi 5s là sẽ thấy nút "bỏ qua quảng cáo" màu vàng ở phía trên góc phải.

Âm Công Prc Full

Âm Công Prc Full

Âm Công

Cổ Long

Download: Âm Công Prc Full

Download: Âm Công Prc Full

Download: Âm Công Prc Full

Sau khi nhấn vào link download. Trình duyệt sẽ mở trang adf.ly, sau đó bạn chỉ cần đợi 5s là sẽ thấy nút "bỏ qua quảng cáo" màu vàng ở phía trên góc phải.

Tru Tiên Prc Full

Tru Tiên Prc Full

Tru Tiên

Tiêu Đỉnh


Thế gian ngày nay, chính đạo đang mạnh, tà ma tránh lui. Vùng đất trung nguyên sơn linh thủy tú, nhân khí cường thịnh, sản vật phong phú, là nơi chiếm cứ bền vững của các chính phái, trong đó đặc biệt có ba phái lớn đứng đầu, là Thanh Vân Môn, Thiên Âm Tự và Phần Hương Cốc.
Câu chuyện này, bắt đầu từ "Thanh Vân Môn". Trương Tiểu Phàm, nhân vật chính, là một thiếu niên bình thường, nhưng vận mệnh đã cợt đùa với hắn không chỉ một lần... Ý nghĩa duy nhất giúp hắn tồn tại là tình yêu, tình yêu là tấm phao cứu mệnh, là tín ngưỡng và tôn giáo duy nhất của đời hắn. Qua sự vật vã của Trương Tiểu Phàm, mới thấy sự trưởng thành của một người đàn ông gian nan biết bao. "Tru Tiên" thực chất là một bộ tiểu thuyết nói về sự trưởng thành, nói về tình cảm. Soi vào số phận Trương Tiểu Phàm, ta tìm thấy phần nào đó số phận riêng ta...

Download: Tru Tiên Prc Full

Download: Tru Tiên Prc Full

Download: Tru Tiên Prc Full

Sau khi nhấn vào link download. Trình duyệt sẽ mở trang adf.ly, sau đó bạn chỉ cần đợi 5s là sẽ thấy nút "bỏ qua quảng cáo" màu vàng ở phía trên góc phải.

Sơ lược về xe chiến đấu bọc thép và xe tăng

Sơ lược về xe chiến đấu bọc thép và xe tăng

Tác giả: R. M. Ogorkiewicz
Nhà xuất bản: Profile Publications Ltd.
Tháng 5/1971
http://ebookee.org/AFV-Weapons-No-28-S-Tank_247873.html

Phiên bản sản xuất nguyên mẫu cuả Strv 103, không có dụng cụ nổi.

Thiết kế xe tăng có xu hướng đi theo một khuôn mẫu đã được kiểm chứng. Vì lẽ này mà các xe tăng chiến trường thường có nhiều điểm chung giống nhau. Nhưng cũng có những ngoại lệ và đối tượng đáng chú ý nhất chính là loại xe tăng S gây nhiều tranh cãi cuả Thụy Điển vốn có nhiều điểm khác biệt trong các khiá cạnh quan trọng so với các loại xe tăng khác.

Tính năng dễ nhận biết nhất của tăng S là nó không có tháp pháo. Chỉ duy điều này cũng đã khiến cho nó trở nên khác thường, nhưng không phải là điều mới lạ. Trên thực tế, chiếc xe tăng đầu tiên trên thế giới cũng không có tháp pháo và nhiều loại xe tăng khác cũng vậy. Điều khiến cho xe tăng S khác biệt và cũng là một bước tiến so với cá loại tăng không tháp pháo trước đó là khẩu pháo cuả tăng S được lắp cố định vơí thân xe. Và vì thế, nó mang laị nhiều ư thế so vơí các loại tăng khác, kể cả có tháp pháo lẫn không có.

Bởi vì không có tháp pháo, xe tăng S được đánh giá là thấp hơn các xe tăng có tháp pháo, và vì thế khiến cho nó khó bị trúng đạn hơn. Hơn nữa, do khẩu pháo được lắp cố đỉnh, nó không đòi hỏi khoảng không gian đằng sau lớp giáp cần có ở trong các loại xe tăng thông thường lẫn loại không tháp pháo để khoá nòng cuả khẩu pháo chính có thể di chuyển. Việc lắp pháo chính cố định cũng cho phép gắn một một cơ chế nạp đạn tự động tương đối đơn giản do không có chuyển động nào giữa khẩu pháo và băng đạn. Điều này lại cũng cho phép loại bỏ xạ thủ số 2(nạp đạn) và tiết kiệm một khoảng không gian đáng kể bên trong xe, làm cho xe tăng S càng ngỏ gọn và nhẹ hơn.

Đó là những ưu điểm mà tăng S đưa ra, tuy nhiên điều đó cũng có nghĩa khẩu pháo cuả nó chỉ có thể nâng hoặc hạ bằng cách nghiêng thân xe và xoay tầm hướng. Nói theo cách khác, khẩu pháo cuả xe chỉ có thể được nhắm bằng cách di chuyển toàn bộ xe. Điều này chưa hề được thực hiện trước đó và chỉ vài năm sau khi phát triển thì kĩ thuật này mới được kiễm chứng.


NHUỒN GỐC THIẾT KẾ
Ý tưởng dẫn đến xe tăng S bắt nguồn từ Sven Berge, chỉ huy bộ phận thiết kếccuả phân nhánh xe cộ cuả cục hậu cần quân đội Thuỷ Điển. Chúng nảy ra từ những nghiên cứu cuả ông về những loại xe tăng đã được sản xuât1 trước đó trong thập niên năm mươi và đặc biệt là loaị xe tăng AMX-13 cuả Pháp. Vào thơì điểm đó, quân đội Thuỵ Điển thực sự đang cân nhắc mua loaị xe tăng hạng nhẹ này từ Pháp mặc dù cuối cùng họ quyết định mua loại tăng Centurion mạnh mẽ hơn của Anh. Dù vậy, một số tính năng cuả AMX-13 đã thu hút Berge. Cụ thể là tháp pháo kiểu đung đưa(oscillating) hay còn gọi là trục quay(trunnion). Điều này cho phép khẩu pháo được đặt gần hơn với nóc tháp pháo, cho phép xe tăng lộ diện ít hơn khi sử dụng pháo và đơn giản hoá các thiết bị điều khiển hoả lực và việc gắn một cơ chế nạp đạn tự động, bởi vì khẩu pháo không di chuyển so với  các dụng cụ quang học và băng đạn. Những ưu điểm trên có được từ việc khẩu pháo của AMX-13 được gắn cố định với phần trên của tháp pháo trục quay gồm 2 phần cuả nó và được nâng hạ cùng với phần tháp pháo phía trên. Nhưng tháp pháo đung đưa cũng có nhược điểm cuả nó và điều này dẫn Berge đến việc đưa ra một cách thức khác để phát huy những điểm tốt của nó dưới dạng một xe tăng không có tháp pháo với một khẩu pháo gắn cố định.
 
ĐẦU TƯ SƠ BỘ     

Lvkv 42, một pháo tự hành phòng không 40mm thử nghiệm với hệ thống treo điều chỉnh được, chế tạo bởi Bofors năm 1954.

Berge đưa ra đề nghị ban đầu của mình vào tháng 8/1956. Vào thời điểm đó, một số khái niệm nằm trong đề nghị của Berge đã được kiểm nghiệm phần nào và điều này trên thực tế đã dẫn đến sự định hình cho thiết kế đề ra cuả Berge. Điển hình là AB Bofors, một công ty Thuỵ Điển nôỉ tiếng trên thế giới về pháo, giữa năm 1949 và 1954 đã phát triển một xe pháo phòng không tự hành 40mm với hệ thống treo thuỷ lực-cơ học có thể điều chỉnh được cho thấy sự khả thi cuả việc nâng hoặc hạ khẩu pháo bằng cách nghiêng thân xe mang khẩu pháo. Tuy nhiên tính khả thi của việc quay tầm hướng khẩu pháo bằng cách xoay toàn bộ xe lại ít rõ ràng hơn. Khẩu pháo có thể được quay một cách tốc độ bằng cách dùng hệ thống lái khớp-và-phanh đã được biểu diễn trước đó nhiều năm khi quân đội Thuỵ Điển kiểm tra một xe pháo tự hành cuả Đức, chiếc Sturmgeschütz III cũng như nhiều loại xe khác của nước ngoài để đánh giá sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng liệu khẩu pháo có thể quay tầm hướng một cách êm ả và chính xác vẫn chưa được kiểm chứng: Chiếc Sturmgeschütz và mọi loại xe khác, ngoại trừ một loại, với khẩu pháo gắn trong thân xe đều có thể di chuyển khẩu pháo ở một góc giới hạn trong mối tương quan với thân xe để xoay chúng một cách chính xác.

Loại xe ngoại lệ duy nhất là Char B cuả Pháp cuả thập niên ba mươi. Chiếc xe tăng chiến trường này có một pháo 75mm được nâng hạ độc lập so với thân xe nhưng được điều chỉnh gó hướng bằng cách xoay toàn bộ thân xe bằng bộ truyền động vi sai đôi với một cơ chế lái hướng thủy tĩnh. Hệ thống lái được lấy từ xe tăng thử nghiệm SRB thiết kế năm 1921 dưới sự chỉ đạo cuả E. Brillié của công ty Schneider, người đã thiết kế chiếc xe tăng đầu tiên cuả Pháp. Nó cung cấp khả năng kiểm soát tốc độ cuả xích xe trong một mức độ không giới hạn, khiến cho nó vượt trội hơn các hệ thống laí khác trong nhiều năm. Tuy nhiên, mặc dù có hệ thống lái hoàn hảo, cách thức nhắm bắn khẩu pháo 75mm cuả Char B bằng cách xoay toàn bộ thân xe được chứng tỏ là không hoàn toàn thoả mãn sau khi chiếc tăng được đưa vào phục vụ năm 1936 và bị loại bỏ sau đó. Vì thế mà trên phiên bản cuối cùng Char B1 ter, vốn chỉ có 5 chiếc được chế tạo trước khi quân đội Pháp bị đánh baị năm 1940,  khẩu pháo không còn gắn cố định tầm hướng nữa mà có thể di chuyển độc lập với thân xe trong một góc 10 độ.

Kinh nghiệm cuả quân đội Pháp với chiếc Char B không làm nản lòng Berge hay ngăn cản đề xuất của ông khỏi được chấp nhận để nhiên cứu xa hơn bởi cục hậu cần quân đội Thuỵ Điển. Tuy nhiên, nó cho thấy rõ ràng sự cần thiết phải xem xét lại vấn đề nhắm bắn pháo bằng cách xoay toàn bộ xe một cách kĩ lưỡng. Điều này được khám phá đầu tiên vào mùa động 1957-58 tại trung tâm thiết giáp Thuỵ Điển ở Skövde thông qua chiếc IKV 103, một pháo tự hành tiến công nhẹ mang pháo 105mm không có tháp pháo chế tạo bởi AB Landsverk và Bofors, gắn với hệ thống lái “đòn bẫy”.
Về cơ bản, hệ thống “đòn bẩy”(crowbar) bao gồm hai đòn bẩy nằm hai bên hông xe, một đầu của mỗi đòn bẩy được đóng vào một trục trên thân xe trong khi đầu còn lại có một chân nằm trên xích xe và có thể đẩy xích xe di cuyển khi đòn bẩy quay quanh trục nhờ một pittông thủy lực gắn trên một cái khung gắn vào trước xe. Hệ thống “đòn bẩy” lắp trên chiếc IKV 103 cung cấp một phương thức đơn giản để điều chỉnh chính xác sự di chuyển của xích xe ở mức độ nhỏ và chứng minh rằng khẩu pháo có thể được nhắm bắn với đủ độ chính xác bằng cách xoay cả xe.


Pháo tự hành tiến công IKV 103 với hệ thống lái “đòn bẩy” thử nghiệm lắp bên ngoài.

Các kết quả thu được từ IKV 103 được kiểm chứng năm 1959 bằng cách dùng khung gầm của một xe tăng hạng trung M4 Sherman của Hoa Kỳ. Trong trường hợp này, các đòn bẩy của hệ thống lái ‘đòn bẩy” được đặt ở giữa băng xích và thân xe còn pittông thủy lực thì được lắp bên trong cấu trúc của thân xe, phía trên băng xích, sự sắp xếp này khiến chiếc xe trông gọn gàng hơn. Tuy nhiên, nguyên nhân chính dẫn đến việc chế tạo mẫu xe kiểm tra thứ hai này là để kiểm tra xem liệu có những ảnh hưởng do tỉ lệ chưa thấy trước giữa chiếc IKV 103 nặng 9 tấn và chiếc xe tăng đề nghị vốn có trọng lượng được cho là khoảng 30 tấn. Khung gầm chiếc Sherman cũng được lắp một pháo 150mm nhưng không có dụng cụ giật lùi nhằm mục đích khám phá những ảnh hưởng từ việc lắp cứng khẩu pháo, vốn đã được đề xuất ra đầu tiên ở Đức vaò cuối đệ nhị thế chiến. Việc lắp cứng khẩu pháo chứng minh là có thể chấp nhận được nhưng không được theo đuổi xa hơn.


Khung gầm xe tăng hạng trung Sherman với hệ thống lái “đòn bẩy” lắp chìm trong xe.


PHÁT TRIỂN CÁC BỘ PHẬN
Trong thời gian đó, dựa vào những kết quả khả quan thu họach được từ IKV 103 và các nghiên cứu trên giấy, Bofors được trao một hợp đồng vào giữa năm 1958 để phát triển chiếc xe tăng không tháp pháo đã đề xuất cùng với khung lắp pháo cố định. Hợp đồng này cũng bao gồm các tính năng mới lạ như hệ thống treo thủy lực-hơi có thể điều chỉnh được, một hệ thống lái mới và một cơ cấu nạp đạn tự động.

Công ty Bofors cho tới lúc đó chỉ mới thiết kế hai lọai xe bọc thép và không có lọai nào vượt quá giai đọan thử nghiệm. Một lọai là Lvkv 42, pháo tự hành phòng không 40mm nặng 13,5 tấn với hệ thống treo điều chỉnh được cho quân đội Thụy Điển năm 1954. Lọai còn lại là pháo tự hành tiến công 120mm không tháp pháo nặng 20 tấn với cơ chế nạp đạn tự động được công ty tự bỏ vốn chế tạo vào cuối thập niên 1940. Tuy nhiên, cả hai lọai xe này đều mang những tính năng đã được dự đoán trước sẽ xuất hiện trên xe tăng S và Bofors cũng có đủ khả năng để thực hiện quá trình phát triển không chỉ bởi những ngauyên mẫu xe trước mà còn vì kinh nghiệm đáng kể của họ trong lĩng vực pháo hải quân và phòng không vốn có liên quan cao đến xe chiến đấu tinh vi như lọai xe tăng S.


Pháo tự hành tiến công thử nghiệm 120mm với máy nạp đạn tự động của Bofors.

Hơn thế nữa, Bofors còn được hổ trợ phát triển xe tăng S bởi AB Volvo, nhà xuất xe hơi hàng đầu của Thụy Điển, được đưa vào chương trình năm 1959 với tư cách nhà thầu phụ cung cấp động cơ và AB Landsverk, công ty về sau trở thành nhà thầu phụ cho phần lớn các bộ phận truyền động. Tháng 5/1959, Borfors nhận yêu cầu của quân đội Thụy Điển để lắp ráp hai mẫu xe thử nghiệm.

Cũng cùng lúc đó, quân đội Thủy Điển cũng quyết định hủy bỏ việc phát triển một chiếc xe tăng chiến trường loại có tháp pháo trước đó là lọai Strv KRV, thiết kế bởi AB Landsverk, nhà sản xuất xe tăng hàng đầu của Thụy Điển từ năm 1930. Đây là một xe tăng nặng 45 tấn, mang động cơ đánh lửa làm mát bằng khí V-12 công suất 850 mã lực và gắn một tháp pháo lớn do Bofors thiết kế mang một pháo nòng trơn 150mm nạp đạn tự động. Tuy nhiên không có tháp pháo nào được chế tạo và 2 khung gầm xe tăng KRV được chế tạo năm 1957 được chuyển đổi thành xe thử nghiệm cho các bộ phận của xe tăng S. trong quá trình thử nghiệm, số bánh chịu tải mỗi bên giảm từ 6 xuống còn 4 để chúng có thể mô phỏng giống như tăng S. Các khung gầm xe hoán cải được lắp hệ thống treo thủy lực-hơi dự kiến dành cho xe tăng S và được kiểm tra kỉ lưỡng trong năm 1960 và một cơ cấu lái mới với cơ cấu lái thủy tĩnh. Cuối cùng, một trong hai khung xe được lắp một pháo tốc độ cao, lọai 83,4mm 20 pounder của xe tăng Centurion hiện hành. Do vậy, các bộ phận cơ bản của xe tăng S đã được thử nghiệm kĩ ngay cả trước khi nguyên mẫu đầu tiên được chế tạo và các tính năng thông thường đã được kiểm chứng. 


Mô hình tỉ lệ nhỏ của xe tăng chiến trường 45 tấn KRV lắp pháo nòng trơn 150mm nạp đạn tự động.

 
HỆ THỐNG TREO VÀ LÁI

Bằng chứng cuối cùng về tính khả thi của khái niệm xe tăng S được đưa ra khi 2 nguyên mẫu được chế tạo vào năm 1961, mang toàn bộ các tính năng trọng yếu của tăng S. Hệ thống treo thủy lực-hơi cho phép thay đổi độ nghiêng của thân xe nhờ 4 cặp bánh chịu tải. Cặp bánh thứ nhất và thứ ba được gắn vào các cần chủ động và cặp bánh thứ hai và tư gắn vào cần kéo theo. Mỗi cần đều được nối vào pittông của một xilanh thủy lực và xilanh này lại được tiếp tục nối với một xilanh thứ hai chứa một pittông di chuyển ngăn cách chất lỏng thủy lực với chất đàn hồi trung gian, mà trong trường hợp này là khí nitơ. Bộ phận xilanh của 2 cặp bánh chịu tải nằm chính giữa xe độc lập với nhau và với phần còn lại của hệ thống. Nhưng cặp bánh phía trước và sau được nối chéo trục với nhau, thí dụ là bộ phận bánh chịu tải bên phải phía trước được nối với bộ phận bên trái phía sau và mỗi điểm nối thủy lực đều có một bơm có khả năng chuyển chất lỏng từ bộ phận phía trước về phía sau hoặc ngược lại. Điều này làm thay đổi độ nghiêng của thân xe bằng cách thay đổi sự sắp xếp các cần bánh xe và nhờ vậy có thể nâng khẩu pháo lên tối đa một góc 12 độ và hạ thấp khẩu pháo một góc 10 độ.


Nguyên mẫu thử nghiệm xe tăng chiến trường KRV với vật mô phòng trọng lượng hình trụ mô phòng tháp pháo của nó.


Khung gầm của  KRV được thay đổi thành khung xe thử nghiệm cho hệ thống treo thủy lực-hơi và hệ thống lái của tăng S.

Sự thay đổi trong độ cao của thân xe dẫn đến sự thay đổi không thể tránh được của độ dài xích xe và điều này cần phải được xử lí. Cách thức thống thường để chỉnh độ căng của xích xe bằng cách di chuyển bánh dẫn hướng một cách cơ học được cho là quá cồng kềnh và vì thế mà một hệ thống điện-thủy lực được thêm vào hai hệ thống treo nối chéo trục. Điều này làm thay đổi độ cao của thân xe bằng cách thêm vào hoặc bớt đi một lượng chất lỏng bằng nhau từ các bộ phận phía trước và sau và vì thế bù cho sự thay đổi độ dài xích xe.


Khung xe thử nghiệm dựa trên khung gầm KRV gắn với 1 pháo 83,4mm 20 pounder của Centurion.

Ở giữa mỗi cặp xilanh có một van đặc biệt để giảm xóc cho chuyển động của xe và cũng có các điểm nối thủy lực giữa các bộ van để cung cấp cho xe một điểm tựa ổn định. Ngoài ra còn có các van cách ly có thể ngắt bất kì một trong bốn bộ van trong trườn hợp nó bị hỏng và độ nghiêng của xe vẫn có thể được kiểm soát với 3 bộ còn lại. Để tăng độ bền bỉ của nó, hệ thống treo chỉ hoạt động ở áp suất tương đối thấp, mặc dù điều này làm cho nó ít gọn gàng hơn. Bộ phận dễ bị hỏng nhất của hệ thống treo là các bánh chịu tải cùng chung lọai bánh với xe tăng Centurion vì thế chúng có thể dễ dàng được thay thế từ chung một nguổn dư trữ phụ tùng.


Một bộ phận của hệ thống treo thủy lực-hơi của Bofors.

Vấn đề thứ hai của 2 vấn đề chính liên quan đến việc gắn cố định khẩu pháo được giải quyết bằng hệ thống lái hai công đọan. Về cơ bản, nó bao gồm cơ cấu truyền động vi sai đôi với 1 thiết bị lái thủy tĩnh và 1 hệ thống khớp-và-phanh nằm chồng lên hoạt động khi khi xe cần những cú ngoặt gấp. Do vậy, hệ thống lái của xe tăng S hoạt động trong 2 công đọan. Ở công đọan đầu tiên, nò hoạt động như một hệ thống vi sai đôi, vì thế nó có tính chất phục hồi và không làm mất tốc độ của xe khi đang ngoặc xe. Cùng lúc đó, hệ thống lái thủy tĩnh khiến cho việc chuyển hướng dễ dàng thay đổi và cung cấp sự điều chỉnh mềm mại cần thiết cho việc nhắm bắn khẩu pháo. Trong công đạon thứ hai, khi mà một  trong số các khớp được nhả ra và các phanh liên quan được sử dụng, nó cho phép tăng S chuyển hướng cực nhanh, nhanh đến nổi mà nó có thể vung pháo của mình nhanh ngang bằng hoặc thậm chí nhanh hơn cả tháp pháo của các xe tăng thông thường.


Bản vẽ nguyên mẫu tăng S cho thấy 2 hộp súng máy với 2 súng máy 7,62mm trong mỗi hộp.


Việc lắp đặt hệ thống điều chỉnh độ nghiêng thân xe và hệ thống lái hai công đoạn không hề gây khó khăn cho người sử dụng mặc dù những phức tạp không thể tránh được của nó. Xe tăng S, trên thực tế dễ vận hành hơn các lọai xe tăng khác do việc kết lái xe và điều khiển pháo vào một bộ phận duy nhất bao gồm một cái hộp và 2 tay cầm. Xoay cái hộp theo trục thẳng đứng thay đổi hướng cho xe: xoay trong khỏang 23 độ điều khiển hệ thống lái thủy tĩng trong khi xoay nhiều hơn sẽ kích họat hệ thống khớp-và-phanh. Vặn tay cầm sẽ làm thay đổi độ nghiêng của thân xe. Ngoài ra trên cái hộp còn có các nút nhấn để điều khiển nạp đạn và khai hỏa vũ khí chính và phụ.


Bộ phận điều khiển hệ thống lái và hệ thống treo với các nút bấm điều khiển nạp đạn và khai hỏa vũ khí chính và phụ.

Cả lái xe lẫn xa trưởng của tăng S đều có một bộ điều khiển như vậy và mỗi người còn có một bàn đạp ga và một bàn đạp thắng để mỗi người đều có thể tự vận hành chiếc xe. Thông thường thì lái xe cũng đóng vai trò xạ thủ nhưng nếu một mục tiêu có thể được giao chiến nhanh hơn bởi xa trưởng, người có vẻ như sẽ phát hiện mục tiêu trước, thì anh ta có thể tự làm điều đó.Vì vậy, xa trưởng không cần phải dùng tới các mệnh lệnh để báo cho các thành viên khác để họ sau đó tác chiến với mục tiêu.


Nguyên mẫu xe tăng S với xích xe toàn bộ bằng thép

Lái xe/xạ thủ và xa trưởng được bố trí ngồi ngang hàng nhau ở chính giữa xe. Ở sau lái xe và quay lưng về phía sau là thành viên thứ ba của tổ lái 3 người của tăng S-người vận hành radio và cũng được cung cấp 1 bộ thiết bị điều khiển lái đơn giản hóa để anh ta có thể cho xe tăng lái lùi. Khả năng lái lùi dễ dàng như lái tiến tới là đặc điểm riêng biệt của tăng S, cho nó một lợi thế độc nhất trong lĩnh vực này. Vị trí quay mặt về phía sau của thành viên thứ ba cũng đồng nghĩa anh ta có thể liên tục canh chừng phía sau xe tăng và vì thế lại cung cấp một lợi thế độc nhất nữa của tăng S so với các loại xe tăng khác.


Bãn vẽ cắt của xe tăng S cho thấy vị trí động cơ và bộ phận truyền động nằm phía trước và băng đạn nằm phía sau xe


HỆ THỐNG HỎA LỰC


Hình chụp bên hông xe tăng S, mẫu trước sản xuất không có các hộp súng máy.

Nằm giữa lái xe/xạ thủ và xa trưởng là khẩu pháo 105mm của tăng S. Khẩu pháo rất giống với loại L7 105mm của Anh được sử dụng trên nhiều loại xe tăng , bao gồm phiên bản cuối của Centurion, M60 của Hoa Kỳ, Leopard của Đức, Pz.61 của Thụy Sĩ và Vickers Vijayanta của Anh-Ấn và nó có thể dùng chung loại đạn với các xe tăng trên. Điều này đặc biệt quan trọng với quân đội Thụy Điển vì nó có nhiều xe tăng Centurion trong các đơn vị thiết giáp của mình. Tuy nhiên, khẩu pháo được chế tạo ở Thụy Điển bởi Bofors và có chiều dài nòng gấp 62 lần đường kính đạn thay vì 51 như ở khẩu L7, vì thế cung cấp cho đầu đạn APDS một sơ tốc cao hơn đáng kể so với tốc độ 1450m/s của loại nòng ngắn. Sơ tốc cao hơn lai cho khả năng xuyên giáp tốt hơn, kết quả đạt được là khả năng xuyên giáp bằng với loại L7 nhưng ở khỏang cách xa hơn 500m. Trong cùng lúc, tầm vung của khẩu pháo tăng S cũng nhỏ hơn so với các loại tăng có tháp pháo vì khóa nòng của nó được đặt nằm sát cuối xe.

Ở sau khoang tổ lái, nằm cuối xe là băng đạn 50 viên cho khẩu pháo với một cơ cấu nạp đạn tự động hoạt động bằng thủy lực. Băng đạn được chia làm 2 nữa theo trục chính giữa thân xe, một nữa thường chứa đạn APDS và nữa còn lại chứa đạn HE. Các viên đạn được chứa trong 10 giá và lăn xuống 1 khay nạp đạn nhờ trọng lực rồi chuyển tới phần chính giữa băng đạn bằng pittông thủy lực, mỗi băng đạn có 1 pittông. Khi viên đạn đã nằm ở chính giữa sàn, một pittông thứ ba nâng nó lên ngang tầm với khóa nòng và một pittông thứ tư đẩy nó vào vị trí. Sau khi viên đạn đã được bắn, vỏ đạn được tống ra ngoài thông qua một cửa sập nhỏ nằm ở sau xe. Bởi vì không có chuyển động tương đối giữa bệ pháo và băng đạn nên toàn bộ hệ thống tương đối đơn giản và ít gặp sự cố. Băng đạn được tiếp đạn từ bên ngoài thông qua 2 lỗ nhỏ và 2 người có thể làm điều này trong khỏang 10 phút, đây được cho là nhanh hơn so với chất đạn lên một xe tăng có tháp pháo thông thường và ít mệt mỏi hơn.

Ngoài việc lọai bỏ yêu cầu nạp đạn bằng con người, tiết kiệm không gian và cung cấp đạn ngay lập tức cho khẩu pháo, cơ cấu nạp đạn tự động còn giúp tăng tốc độ bắn lên 15 viên mỗi phút, gần như gấp đôi tốc độ bắn của xe tăng nạp đạn thủ công dùng pháo cùng cỡ. Tốc độ bắn nhanh đến vậy của tăng S trên thực tế khiến nó có thể bắn pháo 105mm theo loạt, tăng khả năng tiêu diệt một mục tiêu đặt biệt nguy hiểm và khả năng làm điều này lại càng được tăng cao bởi cơ chế khóa mục tiêu tự động của hệ thống treo mỗi khi nút khai hỏa được nhấn, làm khả thi việc bắn viên đạn tiếp theo mà không cần trì hoãn.

Ngoài vũ khí chính, xe tăng S trong giai đọan nguyên mẫu còn được gắn 4 súng máy 7,62mm lắp theo cặp đặt trong các hộp có giáp bảo vệ nằm 2 bên tấm giáp trước của thân xe. Cả 4 khẩu đều được canh song song với khẩu pháo 105mm và được bắn từ xa. Mái vòm xoay của xa trưởng tương tự như lọai lắp trên xe thiết giáp chở quân Pbv 301 và cũng giống như nó, có thể được lắp ngoài 1 pháo tự động 20mm. Tuy nhiên, việc lắp loại vũ khí nằy được cho là quá nguy hiểm cho xe tăng S và nó không bao giờ được thự hiện. 
 



ĐỘNG CƠ
Bởi vì phần ssau xe đã bị băng đạn chiếm chỗ, khoang động cơ và truyền động phải được bố trí ở phía trước xe. Nó chứa, trên thực tế, 2 động cơ khác nhau nằm cạnh nhau, 1 cái là động cơ diesel trong khi cái còn lại là động cơ turbine khí.

Khi mà tổ hợp động cơ diesel và turbine khí được chấp nhận cho xe tăng S, nó chỉ mới được sử dụng trên tàu chiến trước đó. Nó cung cấp cho tàu chiến lợi thế tiết kiệm kinh tế của động cơ diesel để đi xa và khả năng cung cấp thêm một lượng năng lượng đòi hỏi trong một khỏang thời gian ngắn từ động cơ turbine khí có kích thước khá gọn gàng. Các tính toán tương tự như vậy dẫn đến việc chấp nhận tổ hợp 2 động cơ cho tăng S. Vì thế, động cơ diesel được thiết kế để hoạt động một mình trong điều kiện vận động bình thường, khi mà yêu cầu về công suất cho xe khá thấp còn động cơ turbine khí sẽ được dùng khi cần một lượng công suất lớn. Các bố trí như vậy không chỉ phát huy hiệu quả của động cơ diesel và turbine khí mà còn hạn chế hạn chế của lọai động cơ turbine bằng cách chỉ dùng nó trong khỏang thời gian ngắn.

Việc dùng động cơ turbine khí cũng cung cấp lợi thế dễ khởi động, đặc biệt là trong điều kiện thời tiết lạnh, một điểm quan trọng trong thời tiết mùa động của Thụy Điển. Bộ truyền động nối 2 động cơ cũng cho phép 1 trong 2 cung cấp năng lượng cho chiếc xe, hạn chế nguy cơ xe tăng bị bất động do 1 hư hỏng động cơ.

Động cơ diesel được chọn là lọai Rolls-Royce K-60, một động cơ 6 xilanh pittông đối đầu, 2 thì làm mát bằng nước đã được phát triển trước đó cho yêu cầu của quân đội Anh. Tuy nhiên, 2 nguyên mẫu xe tăng S vẫn phải dùng lọai động cơ đánh lửa cũ là loại Rolls-Royce B.81 8 xilanh cung cấp 230 mã lực. Khi động cơ K-60 đã sẳn sàng sử dụng, nó cung cấp 240 mã lực và được lắp với bộ truyền thủy lực-động lực chuyển đổi mômen xoắn của Volvo để từ đ1o công suất đầu ra được kết hợp với động cơ turbine khí để lái xích xe. Động cơ K-60 cũng chạy hệ thống lái thủy tĩnh thông qua một bộ phận lấy bớt năng lượng.

Động cơ turbine khí của xe là loại 502-10MA của Boeing do Hoa Kỳ chế tạo, một động cơ đơn giản không có thiết bị trao đổi nhiệt và vì thế tương đối kém hiệu quả, nhưng nhỏ gọn và đã được kiểm nghiệm, đã được dùng với số lượng tương đối trong hải quân Mỹ. Nó tạo ra 330 mã lực nhưng trên thực tế là cung cấp nhiều năng lượng thực hơn so với động cơ pittông cùng công suất  bởi vì nó không cần phải dùng đến quạt tản nhiệt vốn tiêu tốn một phần nhỏ đáng kể năng lượng tạo ra từ động cơ pittông.


Bên trái, động cơ diesel Rolls-Royce K-60 và bên phải, động cơ turbine khí Boeing 502-10MA và bộ bánh răng nối 2 động cơ lại với một trục quay chung.

Động cơ turbine khí của Boeing được dự định thay thế bằng lọai hiệu quả hơn của Volvo với bộ trao đổi nhiệt, tuy nhiên điều này không được hiện thực hóa. Một thời gian sau, các model động cơ mạnh mẽ hơn của Boeing thay thế lọai nguyên bản và bù đắp cho phần năng lượng có thêm mà người ta hy vọng đạt được nhờ nâng cấp động cơ K-60. Tại nhiều thời điểm khác nhau, nhiều loại động cơ diesel công suất cao được cân nhắc để thay thế cho tổ hợp động cơ diesel-turbine khí, nhưng không có loại nào có thể cung cấp đủ năng lượng và đặt gọn trong không gian cho phép.


KHẢ NĂNG TỒN TẠI
Vị trí của khoang động cơ ở phía trước tăng S làm phức tạp hóa việc tiếp cận nó. Trên thực tế, những thiết kế đặc biệt phải được áp dụng để tháo rời tấm giáp trước vốn được chia làm 3 phần. nhờ vậy, một phần của tấm giáp trước ở 1 trong 2 bên của vùng chính giữa có thể được tháo bulông và mở vung lên về chính giữa xe để người ta có thể tiếp cận và bảo trì động cơ. Nhưng khi cần thay thế động cơ diesel thì phần giáp chính giữa và nòng pháo phải được tháo rời.

Nhưng ở phương diện khác , việc bố trí khoang động cơ nằm phía trước khoang của tổ lái làm tăng khả năng bảo vệ chống lại hướng tấn công có nguy cơ nhất. Khả năng bảo vệ chủ yếu ở góc phía trước, dĩ nhiên, đến từ tấm giáp trước được bố trí có độ  nghiêng đặc biệt cao nhờ vào cấu tạo khác thường của tăng S và vì thế rất hiệu quả trong chống lại đạn xuyên giáp tốc độ cao. Hiệu quả của nó lại càng được nâng cao nhơ vào một lọat các “xương sườn” nằm ngang, tức các thanh kim loại làm lệch các đầu đạn xuyên giáp và tăng khả năng bảo vệ với trọng lượng nhẹ hơn so với các tấm giáp đặc thông thường. Giáp “xương sườn” tuy nhiên không được áp dụng cho các xe nguyên mẫu vì chúng có thể làm lộ tẩy nó trước thời gian mong đợi.

Người ta cũng tăng thêm khả năng chống đạn nổ lỏm bằng cách bố trí các thùng xăng chính nằm bên ngoài xe, bên trên băng xích. Mức độ dễ bị hư tổn của tăng S cũng được giảm thấp nhờ vị trí tương đối thấp của đạn pháo, vốn là nguồn gây hỏa họan nghiêm trọng nhất trên xe tăng khi giáp bị xuyên phá.

Khả năng sống còn của tăng S trên chiến trường cũng được tăng cao đáng kể nhờ vào mứ độ lộ diện thấp của nó. Chiều cao đo tới nóc xe của tăng S, trên thực tế chỉ là 1,9m so với chiều cao tối thiểu 2,3 hay 2,4m của xe tăng có tháp pháo. Kết quả là tăng S trở thành 1 mục tiêu khó khăn hơn cho hỏa lực của đối phương và khả năng trúng đạn của nó giảm đáng kể. Ví dụ là khi bị bắn ở tầm 1000m bởi 1 khẩu pháo tăng thông thường không có các thiết bị điều khiển bắn tinh vi, khả năng trúng đạn của tăng S thấp hơn 12% so với loại xe tăng có tháp pháo thấp nhất lúc bấy giờ. Khả năng tránh đạn của tăng S thậm chí lớn hơn so với ví dụ ở trên bởi vì phần bên dưới của bất kì xe tăng nào thường được che đi bởi sự gồ ghề của địa hình, có nghĩa là tỉ lệ phần trăm giữa phần lộ diện của tăng S và tăng có tháp pháo thông thường cao hơn đáng kể tỉ lệ phần trăm giữa chiều cao 2 lọai xe tăng. Vì vậy khi mà phần bên dưới của cả 2 loại tăng bị che đi, khả năng trúng đạn của tăng S thấp hơn 34% so với lọai kia. Nói cách khác, khả năng trúng đạn của tăng S chỉ bằng khỏang 60% so với các loại tăng có tháp pháo.


Xe tăng S, bên trái so với xe tăng Centurion thông thường có tháp pháo.
 
 
PHIÊN BẢN TRƯỚC SẢN XUẤT


Xe tăng S phiên bản trước sản xuất.


Phiên bản trước sản xuất của xe tăng S trong một cuộc thử thách, chú ý rằng xe không có các hộp súng máy.


Phiên bản trước sản xuất của tăng xe S, chú ý khẩu súng máy đo xa 12,7mm.

Nhiều tính năng của xe tăng S đã được thử nghiệm kĩ càng, bắt đầu từ giữa năm 1961 với một trong hai nguyên mẫu. Tuy nhiên, ngay cả trước khi nguyên mẫu đầu tiên được hoàn tất, quân đội Thụy Điển trở nên rất tự tin về tăng S và từ giữa năm 1960, họ đã đặt hàng một xeri 10 chiếc phiên bản trước sản xuất. Chiếc đầu tiên được hòan tất vào năm 1963 và sau đó chúng được đưa đến các cuộc thử thách gắt gao hơn.

Như người ta dự kiến, phiên bản trước sản xuất mang một số thay đổi do những kinh nghiệm có được từ các cuộc kiểm tra các xe nguyên mẫu và có thêm một số tính năng dự định cho tăng S từ ban đầu nhưng bị bỏ trên các nguyên mẫu. Một trong số những thay đổi rõ rệt nhất là một giá đỡ nòng pháo chắc chắn để nâng đỡ khẩu pháo chống lại trường hợp pháo bị cong khi vô tình chạm xuống đất. Các thay đổi khác bao gồm bậu hút khí cho khẩu pháo 105mm. Điều này kèm với hệ thống tự động tống vỏ đạn gần như đã hoàn toàn loại trừ nguy cơ khí thuốc đạn lọt vào khoang của tổ lái.

Hai bánh đở xích cũng được thêm vào mỗi bên sườn xe để nâng đỡ xích vốn trước đó chỉ được bánh chịu tải nâng đỡ và các mắc xích được gắn các miếng cao su để cải thiện khả năng đi đường.

Một thay đổi khó thấy hơn là việc thay thế một hộp súng máy đôi 7,62mm ở góc phải xe bằng một khẩu súng máy 12,7mm dùng để đo xa. Súng máy đo xa vốn được dự định lắp trên tăng S ban đầu thay thế cho các thiết bị đo xa quang học vốn có mặt trên hàu hết các xe tăng hiện đại nhất lúc đấy, ngoại trừ ở Anh, nơi mà súng máy đo xa 12,7mm được phát triển. Tuy nhiên, hộp bọc thép cho những cây súng máy không được gắn vào các mẫu xe trước sản xuất hay thậm chí chúng còn không được lắp vũ khí vào hộp bên tay phải bởi vì ý tưởng dùng súng máy đo xa bị bỏ vào năm 1966.

Hai tính năng khác của tăng S chỉ được hiện thực hoá trong quá trình kiểm tra các xe trước sản xuất mặc dù chúng đã được lên kế hoạch trước đó là tấm màn nổi có thể thu gọn lại và lưỡi đào đất. Tấm màn nổi đã được nước Anh phát triển trong chiến tranh thế giới thứ hai tuy nhiên, tăng S là chiếc xe tăng chiến trường đầu tiên được thiết kế để luôn mang theo nó được gấp gọn trong một máng chạy dọc phần phía trên xung quanh thân xe nơi nó được bảo vệ chống đạn cá nhân và miểng pháo. Tấm màn được tách đôi ra ở phía trước để có thể bọc quanh nòng pháo vươn dài ra trước và khi tấm màn được nâng lên, chổ tách rời được nối lại bằng kim kẹp. Toàn bộ công đoạn tốn khoảng 15 phút cho tổ lái để nâng tấm màn lên, cho phép tăng S nổi và bơi với tốc độ 5,5km/h. Hiệu ứng đẩy của xích xe trong nước được cải thiện nhờ vào 1 miếng chắn nhỏ gắn vào phía trước băng xích mỗi bên thân xe. Xe tăng S cũng có thể vào và ra khỏi mặt nước với một độ cao thuận lợi hơn các loại xe cộ khác bởi vì thân xe và tấm màn có thể được nghiêng đi nhờ hệ thống treo.


Xe tăng S đang đi vào bờ với tấm màn nổi được kéo lên.


Xe tăng S đang bơi với sự hổ trợ của tấm màn bơi.

Hệ thống treo điều chỉnh được cũng thuận lợi cho việc lắp một lưỡi đào đất mà với nó, tăng S có thể tự đào cho nó một hố cá nhân để tăng cường khả năng tồn tại. Thông thường thì lưỡi đào được gập vào dưới mũi xe nhưng khi cần sử dụng thì nó sẽ vung về phía trước và được cố định bằng 2 sợi cáp, công việc này được tổ lái làm thủ công trong khoảng 5 phút. Khi điều này đã thực hiện xong, vị trí thẳng đứng của lưỡi đào đất và độ sâu mỗi lần đào được kiểm soát bằng cách nghiêng thân xe nhờ vào hệ thống treo của nó.


Phiên bản trước sản xuất với lưỡi đào đất đang trong vị trí làm việc, cũng giống như các nguyên mẫu, chiếc xe này không có bánh đỡ xích.


PHIÊN BẢN SẢN XUẤT


Bắt đầu quy trình lắp ráp ở Bofors.


Phiên bản sản xuất ban đầu của tăng S, hay còn gọi Tăng S Loại A, không có tấm màn nổi.

Việc kiểm tra các xe phiên bản trước sản xuất và cải tiến các chi tiết của thiết kế được tiếp tục cho tới năm 1967. Cho tới thời điểm đó, chi phí cho phát triển tăng S, bao gồm việc chế tạo 2 nguyên mẫu và 10 xe phiên bản trước sản xuất, đã lên tới 120 triệu kronor, hoặc 8,4 triệu bảng Anh theo thời giá bấy giờ. Điều này có nghỉa là quá trình phát triển xe tăng S không hề quá tốn kém và trên thực tế, rẻ hơn nhiều so với nhiều lọai tăng khác mặc dù những tính năng mới lạ và thiết kế tinh vi.

Trong thời gian đó, quân đội Thụy Điển quyết định chấp nhận xe tăng S cho các đơn vị thiết giáp của mình và vào tháng 7/1964, họ đã đặt hàng hãng Bofors một yêu cầu sản xuất trị giá 33 triệu bảng Anh. Yêu cầu này bắt đầu thu được kết quả 3 năm sau đó khi Bofors bắt đầu giao hàng phiên bản sản xuất mà họ gọi là xe tăng S loại A(S-tank Type A) và được quân đội Thụy Điển đặt mã Strv 103.

Khác biệt bên ngoài giữa phiên bản sản xuất và trước sản xuất là phiên bản sản xuất có giáp “xương sườn”, 1 nắp vòm mới cho xa trưởng và thùng đựng hàng ở phía sau thân xe. Tuy nhiên, tính năng thú vị nhất của nó là kính tiềm vọng và kính ngắm Jungner OPS-1, 1 trong 2 loại được trang bị cho xa trưởng trong khi cái còn lại trang bị cho lái xe/xạ  thủ. Nó bao gồm 1 kính tiềm vọng có thị trường đặc biệt rộng lên đến 102 độ kết hợp với một kính quan sát có độ phóng đại 6X, 10X hoặc 18X tùy theo lựa chọn. Các thiết bị của lái xe/xạ thủ là loại cố định còn của xa trưởng thì được cân bằng bằng con quay hồi chuyển theo chiều thẳng dứng và được gắn trên 1 nắp vòm được ổn định theo chiều ngang. Vì vậy, xa trưởng có thể quan sát khi xe đang di chuyển dễ dàng hơn xa trưởng các loại tăng khác và khi đã xác định được mục tiêu, anh ta có thể xoay chiếc tăng về hướng đó trong khi vẫn giữ rõ tầm nhìn.

Ở trên nắp vòm của xa trưởng là khẩu súng máy 7,62mm có thể được anh ta bắn từ trong xe mà không cần lộ ra bên ngoài. Ngoài kính tiềm vọng/kính nhắm OPS-1, nắp vòm của xa trưởng còn được gắn thêm 4 kính tiềm vọng đơn giản, thay vì các cửa kính nhỏ kiểu Mỹ trên nắp vòm kiểu ban đầu và cũng có 1 kính tiềm vọng như vậy cho lái xe và 2 kính cho người vận hành radio, cung cấp cho tổ lái tầm quan sát bao quát toàn bộ khắp các hướng. Lần đầu tiên được dùng trên xe tăng, toàn bộ kính tiềm vọng của tăng S đều được gắn tấm chắn che nắng bọc thép gạt lên điều khiển bằng cần từ bên trong xe. Các tấm chắn này không chỉ bảo vệ kính tiềm vọng của xe khỏi bị tổn hại khi không dùng đến mà còn tránh cho kính tiềm vọng phản xạ ánh sáng làm lộ vị trí của xe tăng vào ban đêm.

Kính tiềm vọng/kính nhắm cũng được phát triển để truyền xung laze và xung dội lại. Các thí nghiệm với thiết bị đo xa bằng laze cho tăng S đã bắt đầu từ 1965 và thiết kế để có thể gắn nó cho kính tiềm vọng/kính nhắm của xa trưởng hay lái xe/xạ thủ được áp dụng cho các xe phiên bản sản xuất.

Mẫu xe sản xuất ban đầu, Loại A được gắn động cơ turbine khí giống như các nguyên mẫu và phiên bản trước sản xuất nhưng Loại B sau này được mang động cơ Boeing 553 mạnh mẽ hơn, sản xuất ở Bỉ bởi F.N.-Boeing S.A. và được chấp nhận vào năm 1966. Nó tạo ra 490 mã lực và cải thiện thể hiện của chiếc tăng, đặc biệt là trong khả năng tăng tốc và tốc độ trung bình trên đường.


Xe tăng S Loại B với thiết bị nổi.


Góc nhìn từ phía sau chiếc Tăng S Loại B với thiết bị nổi.

THỂ HIỆN THỤC TẾ

Việc giao hàng các xe phiên bản sản xuất xe tăng S được kiểm nghiệm trên quy mô ngày càng lớn trong các đơn vị thiết giáp Thụy Điển. Các cuộc thử thách, chủ yếu là dựa trên môi trường thực tế, xác nhận rằng tăng S có thể thực hiện tất cả ngoại trừ một vai trò của một xe tăng chiến trường và nó có một số lợi thế so với các loại tăng có tháp pháo. Một kết luận tương tự cũng được người Anh đồng ý khi hai chiếc tăng S được đánh giá vào năm 1968.

Điều duy nhất mà xe tăng S không làm được là chạy theo một hướng và bắn pháo chính về một hướng khác. Nói cách khác, nó không thể giao chiến với các mục tiêu chính khi đang di chuyển, trừ khi chúng xuất hiện thẳng phía trước xe. Điều này làm gia tăng định kiến chống lại tăng S và quan điểm, rất cố chấp ở nhiều nơi, rằng nó không phải là xe tăng mà chỉ là một loại pháo tự hành diệt tăng có vai trò hạn hẹp.

Tuy nhiên, mọi loại tăng đều phải dừng lại để có thể bắn chính xác, ngay cả khi chúng được cân bằng bằng con quay hồi chuyển theo cả phương ngang lẫn dọc. Điều thực sự có ý nghĩa là tăng S có thể dừng lại và khai hỏa khẩu pháo với tốc độ như thế nào, vốn dựa trên toàn bộ khoảng thời gian phản ứng. Điều này bao gồm một chuỗi các sự kiện liên tiếp mà một số trong đó có thời gian giảm đi đáng kể hay thậm chí được bỏ qua ở tăng S. Điển hình là bởi vì xa trưởng và lái xe/xạ thủ đều đựoc cung cấp một bộ thiết bị kết hợp lái xe và điều khiến pháo, một trong hai người có thể dừng và bắn khẩu pháo. Vì thế mà khoảng thời gian cần phải có ở một xe tăng thông thường để xa trưởng xác nhận mục tiêu, ra lệnh cho lái xe, xạ thủ và người nạp đạn để hành động đã bị loại bỏ. Vì thế mà xe tăng S có thể phản ứng nhanh bằng hoặc thậm chí nhanh hơn một xe tăng thông thường.

Dĩ nhiên cũng có một số trường hợp mà khả năng bắn pháo về hướng bên hông của xe tăng có tháp pháo là một lợi thế mặc dù điều này có nghĩa là để hở điểm yếu sườn xe ra trước mặt kẻ thù. Nhưng trong hầu hết các khía cạnh khác, tăng S đều có lợi thế.

Điển hình là tăng S có hai động cơ vì thế làm giảm nguy cơ xe bị mất di động. Tương tự, vì xa trưởng và lái xe/xạ thủ đều có thiết bị lái xa và điều khiến pháo giống nhau, tăng S vẫn có thể hoạt động hiệu quả  khi một trong hai bị mất khả năng chiến đấu. Dưới điều kiện thông thường, việc này làm giảm sự mật mỏi cho tổ lái. Cấu tạo của tăng S không chỉ làm giảm chiều cao của nó mà còn làm thuận tiện hơn cho việc lợi dụng địa hình và đặc biệt là trong các vị trí thân xe nằm dưới mặt đất. Nó cũng cung cấp cho tổ lái khả năng bảo vệ tốt mặc dù thực tế rằng với trọng lượng 37 tấn, xe tăng S là một trong những thành viên nhẹ kí nhất cũa thế hệ xe tăng hiện tại.

Khả năng bảo vệ cao của tăng S được thể hiện ra rõ trong các cuộc thử thách khác nghiệt thực hiện trong giai đọan 1968-1970. Trong những cuộc thử thách đó, xe tăngS đã sống sót được hỏa lực của các loại pháo tăng có tố độ cao, vũ khí chống tăng của bộ binh và pháo của máy bay, các vụ nổ mìn chống tăng, bom napalm và ngay cả sức nổ của một vụ nổ hạt nhân mô phỏng.


Một chiếc tăng S với một quả mìn nổ bên dưới băng xích trong một cuộc thử thách khả năng bảo vệ, thiệt hại của hệ thống treo được tổ lái sửa chữa xong trong khoảng 3 giờ.


Các chất của một quả bom napalm cháy xung quanh một chiếc tăng S, tổ lái chỉ cần vài phút để lau kính quan sát để xe tăng hoạt động trở lại.


Hai chiếc Tăng S Loại B băng qua một ngôi làng Thuỵ Điển trong một cuộc diễn tập mùa đông.


Một chiếc tăng S trước sức nổ của một vụ nổ hạt nhân mô phỏng.


Bản tóm tắt các thông số chính cũa Strv 103(Xe tăng S Loại B)
Pháo, cỡ nòng_______________________________________105mm
_____chiều dài_______________________________________62 caliber
_____Cơ số đạn______________________________________50 viên
Súng máy, cố định____________________________________2 x 7,62mm
_________lắp ngoài___________________________________1 x 7,62mm
Trọng lượng, trống____________________________________37.000kg
___________chiến đấu________________________________39000kg
Chiều dài,với nòng pháo và thùng chứa hàng_______________9,8m
________không tính nòng pháo và thùng chứa______________7,0m
Chiều ngang, toàn bộ__________________________________3,6m
___________không tính các chi tiết tháo rời được___________3,4m
Chiều cao, tới nóc của lái xe____________________________1,9m
_________tới phần trên nắp vòm________________________2,1m
Khỏang sáng gầm, ở trung tâm__________________________0,5m
_______________ở hai bên_____________________________0,4m
Bề ngang của xích____________________________________0,67m
Áp lực mặt đất_______________________________________0,9kg/cm2
Động cơ, diesel______________________________________Rolls-Royce K-60
__________công suất_________________________________240hp
________turbine khí__________________________________FN-Boeing 553
__________công suất_________________________________490hp
Tốc độ tối đa trên đường_______________________________50km/h
Tầm hoạt động, trên đường_____________________________300-400km
Tổ lái______________________________________________3 người


HẾT
 
http://worldoftanks.com/
 

Panzer Aces - Chỉ Huy Xe Tăng Đức trong Đệ Nhị Thế Chiến (P 6)

Chương 3

Rudolf von Ribbentrop

Trong các hoạt động với Sư Đoàn the Leibstandarte và Hitlerjugend: Trận Kharkov


Tháng 1 năm 1943, Sư Đòan Xe Tăng SS Leibstandarte được chuyển từ Pháp đi Nga. Ngày 14 tháng 1 năm 1943 cuộc tấn công của Soviet đã sẽ toạc một khoảng rộng 350 km của tuyến phòng thủ quân Đức và đồng minh. Tập Đoàn Quân 2 bị đánh tơi tả. Tập Đoàn quân 2 Hungarian coi như bị tiêu diệt. Các quân đoàn Đức đóng ở khu vực Hungary đang vừa đánh vừa rút lui về Oskol. Nhưng thành phần còn lại của các quân đoàn Alpini và 24 Xe Tăng không còn chiến đấu được nữa.

Giống như Phương Diện Quân Trung Tâm, đang phong thủ tuyến Gelgorod - Graiworon - Lebedin, Phương Diện Quân Nam đang bị đe dọa đè bẹp hay thọc sườn. Tấn công về hướng Tây, Các phương diện quân Nga được đặt tên: "Mặt Trận miền Nam" và " Mặt Trận Tây Nam" và cánh quân phía Nam của "Mặt Trận Voronezh đã chiếm Kursk và Slawjansk. Mục tiêu của họ là sông Dniepr.

Trong những ngày bi thảm tháng giêng này, chỉ có lực luwọng quân Đức duy nhất ở phía Đông Oskol gần Swatowo là SĐ bộ binh 320, SĐ BB 298 đã bị thiệt hại năng, tập trung gần Kupjansk, và một số thành phần của SĐ Xe Tăng Xung Kích Groβdeutschland phía tây của Valuiki. Giữa các sư đoàn là những khoảng trống rộng lớn, và quân Nga chọc thủng chỉ còn là vấn đề thời gian.

Trong tình hình nhigêm trọng đó, Hilter ra lệnh cho Bộ Tư Lệnh Tối Cao Đức - Oberkommando des Heeres, hay OKH - đưa Quân Đoàn tân lập Xe Tăng II SS từ Pháp đi Nga. Đến cuối tháng Giêng thì những thành phần đi đầu của SĐ Xe Tăng 1 SS vá Sư Đoàn Xe Tăng 2 SS Das Reich đến khu vực Kharkov. Tuy nhiên, kế hoạch phản công lớn của OKH khong có được thực hiện, vì Hồng Quân đã tiến xâu vào phần đất của Đức. Các thành phần của cả 2 sư đoàn được tung vào chiến đấu ngay khi họ đến nơi trong nổ lực chống đở của quân Đức. SĐ Xe Tăng 1 SS tập trung ở sông Donets. Trong khi đó, SĐ Xe Tăng 2 SS được gởi thẳng qua sông Donets về hướng Valuiki do tướng tư lệnh QĐ Xe Tăng II SS, Trung Tướng SS Hausser.

Ngày 28 tháng 1 năm 1943, Tư Lệnh của TĐQ A, vừa được thành lập với sự có mặt của 2 sư đoàn SS, tướng Hubert Lanz, vừa được thăng cấp tướng cùng ngày. Kharkov phải được giữ bằng mọi giá. Ngày 1 tháng 2, quân Soviet tái tấn công trên toàn mặt trận. TĐQ Xe Tăng 3 Soviet tiến về hướng Valuiki, cắt 2 sư đoàn bộ binh 298 và 230 ra khỏi TĐQ A.
Hành Quân về Hướng Đông

TĐ 2, Trung Đoàn Xe Tăng 1 SS, dừng lại vài ngày trên hành trình đến nước Nga, dừng lại ở Burg, gần Magdeburg, để trang bị xe tăng từ các kho ở đây. Những xe tăng bổ sung này nâng đơn vị lên sức mạnh cần có trước khi tham chiến. Trung đội trưởng Trung Đội 1, Đại Đội 6, Thiếu Úy SS Rudolf von Ribbentrop, viết về cuộc hành quân và điều kiện của nó:

Đó là một đêm trời không mây và lạnh khi chúng tôi lên xe lửa. Chúng tôi đi qua Pomerania và Đông Phổ, rồi thẳng vào Nga đến Kharkov, nơi chúng tôi xuống xe vào một đêm đầu tháng 2 năm 1943.

Đơn vị chúng tôi có thái độ rất tự tin và hăng hái. Chúng tôi hoàn toàn tin vào các chỉ huy của mình, vì chúng tôi đã biết họ một thời gian dài; cũng như binh sĩ của chúng tôi, nhưng người đã đưọc huấn luyện và chuẩn bị vào sinh ra tử cùng chúng tôi.

Khi xuống tàu, chúng tôi có cảm giác làm một chuyến đi đầy khó khăn hơn là dể dàng. Chúng tôi bắt gặp những người nhân viên đường sắt chán nản và những người lính rã ngủ hoang mang từ nhiều sư đoàn khác ngau. Những tin đồn lung tung trong đêm hôm đó khi chúng tôi đưa xe tăng xuống tàu về chạy vài km đến một ngôi làng tên merefa. Chúng tôi ngủ trong các căn nhà tranh của nông dân trong làng.

Vì trời rất lanh, mổi tổ 2 người phải thay phiên nhau mổ máy với thanh sắt quay tay, và không cho bình điện bị hoen.

Sáng hôm sau, Thiếu Úy SS Janke và tôi đi ra ngoài và đứng trước ngôi nhà. Khói bốc lên từ lò sưởi làm tôi nhớ đến nhân vật Janke trong cuốn sách của Bwinger nói về kinh nghiệm khi ở tù ở Siberia.

Một cảnh vật rất êm đềm. Tuy nhiên, báo cáo đến sau đó rằng Hồng Quân đã tung ra một cuột tấn công mãnh liệt nhắm từ Kharkov Kniepr và ở vùng Biển Đen, nhằm bao vây toàn bộ Phương Diện Quân Nam và kết thúc nó như những gì đã xảy ra ở Stalingrad.


Đó là diễn tả của Ribbentrop. Phần sau đó là những tóm tắt về tình hình chung của QĐ 2 Xe Tăng SS đối đầu những ngày sau đó.

Đầu tháng 2, QĐ phải đối diện với cuộc bao vây ở trong và xung quanh Kharkov. Họ đã nhận lệnh từ Quốc Trưởng là "bảo vệ Kharkov đến viên đạn cuối cùng." Mặc dù khi lệnh đến nơi, quân địch đã trên đường bao vây Kharkov. Trung Tướng SS Hausser phải đương đầu với một quyết định khó khăn: phóng ra một cuộc tán công vào Hông Quân lúc này đã bao vây Kharkov về phía Nam - bỏ thành phố - hay tập trung lực lượng vòng trong để phòng thủ thành phố. Quyết định sau sẽ mang đến việc bị bao vây và bị tiêu diệt. Dó đó Hausser quyết định tấn công về phía Nam với 3 cánh quân, đánh dập sự đe doạ ở sườn Nam và vượt khỏi vòng vây Kharkov.

Tập trung lực lượng tấn công trong cơn tuyết dày đặc làm cho mọi việc rất khó khăn. Chiến đoàn do Trung Tá SS Meyer nhận lệnh tấn công đến Alexejewka, có nghĩa là vượt qua 70 km trong vùng địch. Chiến đoàn tập trung quân ở Merefa. Meyer viết trong cuốn sách "Xung Kích" của ông ta:

Không thấy một chuyển động nào. Một khu rừng vươn ra dọc con đường ở bên phải phía sau ngôi làng; cũng không thấy một bóng dáng nào. Bên cạnh tôi là người chỉ huy luwjc lượng đi đầu, Trung Úy SS Schulz, người đã cùng tôi lái đến Rostow. Thiếu Úy SS Ribbentrop là người chỉ huy chiếc thiết giáp đi đầu.

Chúng tôi không dám tiến với đội hình phân tán. Tuyết dày làm cho cuộc vận động qua đồng trống hầu như không thể thực hiện được và rất chậm chạp. Việc tiêu thụ nhiên liệu cũng bị hao phí vô ích. Chúng tôi phải đi trên đường để giữ tốc độ và khai thác sự bất ngờ. Schulz được lệnh tiến vào ngôi làng dưới sự yểm trợ hoả lực của các xe thiết giáp và đợi tiểu doàn trong một mảnh rừng nhỏ. Tôi muốn gây hoang mang cho địch với sự tấn công nhanh bởi trung đội tiên phong và dẫn chiến đoàn về hướng Nam với tốc độ nhanh.
Cuộc Tấn Công Bắt Đầu

Hoạt động đầu tiên là cuộc tấn công và lực lượng thiết giáp địch dẫn đầu bởi Đại Đội 7 thuộc Trung Đoàn Xe Tăng 1 SS. Cuộc tấn công này bị sa lầy trong một khu vực đầm lầy. Đại Đội 6 tiến lên phía trước để giải toả cho đại đội bạn và bảo vệ cuộc rút lui. Đại đội tìm thấy những xe tăng bị xa lầy và trông chừng công việc kéo xe. Một số súng chống tăng và xe tăng hạng nhẹ cũng như một số xe kéo của địch bị tiêu diệt.

Trong cuộc hành quân, Rudolff von Ribbentrop nghe giọng của Thiếu Úy SS Alt, nhân viên truyền tin của đại đội trưởng. Alt, người đã bị thương nặng trong ngày hôm trước khi xe tăng của anh ta bị bắn, bình tỉnh báo là xe đại đội trưởng đã bị cháy và trung đội trưởng trung đội 1 tạm thời nắm quyền chỉ huy đại đội. Chiếc Panzer IV của Von Ribbentrop bị trúng bên sườn phải. Nhưng may mắn là viên đạn dội ra, nhưng nó cũng làm ngọn ăn ten bị hư hại, làm thông tin vô tuyến gián đoạn. Lực lượng nhẹ của Soviêt bị đẩy lùi. Tối hôm đó, TĐ 2 Xe Tăng về lại Merefa.

Ngày hôm sau, đại đội trưởng ĐĐ 6, Trung Úy SS Astegger - Một trong những tay kỳ cựu của tiểu đòan trinh sát của Kurt Meyer trước đây - báo cho các trung đội trưởng biết là đại đội được chuyển qua cho TĐ Thám Báo 1 SS, và có nhiệm vụ tấn công quân Nga. mục đích là tạo một khoảng đê thở cho QĐ. Ngày hôm sau đại đội tập trung ở những ngôi nhà cuối cùng của Merefa. Một ngày mùa đông lạnh và đẹp trời. Ribbentrop viết:

Chúng tôi được kêu ra ngoài. Ở đó chúng tôi gặp đích thân Trung Tướng SS Paul Hausser. Tôan đang dẫn đầu trung đội, đang sắp hàng trước ngôi nhà, khi vị tướng già bước ra chỗ trống. Đứng trên tháp pháo, tôi đưa tay chào. Ông ta đưa tay ra dấu cảm ơn và nói với tôi: "Chúc may mắn."

Chsung tôi không biết rằng vị tướng tư lệnh vừa quyết định cứu QĐ và 2 sư đoàn của mình, SĐ Xe Tăng 1 SS, và SĐ Xe Tăng 2 SS.


Hành động của Hausser đã giữ các sư đoàn cho cuộc phản công ông đã lên kế hoạch. Mặt khác, quyết định này bất tuân lệnh từ Hitler có thể mang đến hậu quả đứng trước đội hành quyết. Những gì ông ta làm không khác gì cãi lệnh.

Tiểu đoàn thám báo dưới sự chỉ huy của Trung Tá SS Meyer có lệnh tấn công vào điểm yếu nhất của vòng vây Soviet gần Nowaja Vololaga. Chọc thủng các vị trí của QĐ 6 Kỵ Binh Cận Vệ Soviet, tiến đến Đông Alexejewka và bắt liên lạc với Chiến đoàn Bắc của Đại Tá SS Fritz Witt, lực lượng nòng cốt từ Trung Đoàn 1 Xe Tăng Xung Kích SS của SĐ 1 Xe Tăng SS. Trung Đội 2 của ĐĐ 6 của Thiếu Úy SS Eckardt được chỉ định dẫn đầu, theo sau là các trung đội còn lại.

Trung đôi trưởng trung đội đi đầu của TĐ Thám Báo bắt đầu chạm trán ngắn với địch trong những ngôi nhà trong làng và bị tử thương. Eckardt cũng bị bắn. Trong khi trung đội của anh ta vẫn tiếp tục tiến. Thiếu Úy SS Ribbentrop nhận lệnh dẫn đầu. Anh ta vượt lên đầu đại đội với tốc độ cao. Những xe tăng vượt qua các đơn vị Soviet, lúc này chạy đủ mọi hướng. Vài xe tăng hạng nhẹ bị bắn cháy và 3 khẩu súng chống tăng im lặng nhưng không làm chậm cuộc tấn công.

Cuộc tấn công bất ngờ đưa chiến đoàn của Meyer đến vị trí khoảng 40 km phía sau mũi dùi của Soviet. Trong chiếc xe hạng nặng chỉ huy Horch, Meyer theo ngay sau xe tăng của Ribbentrop. Vì xe của ông ta chạy nhanh hơn chiếc Panzer IV của Ribbentrop, ngay cả lúc chạy trên tuyết, cứ như là Meyer - hay "Xe Tăng Meyer", binh lính gọi ông ta như vậy - muốn thử xem những chiếc xe tăng có thể chịu đến đâu. Đại đội tiến lên với tốc độ cao nhất. Ribbentrop viết:

Bất cứ khi nào các xe tăng dừng lại trên một ngọn đồi để quan sát địch, Meyer lập tức đứng lên chiếc xe của ông ta và đưa nắm đấm lên, có nghĩa là "Tiếp tục! Nhanh lên!"

Chúng tôi chạy nhanh vượt qua các cánh đồng tuyết phẳng phía nam Kharkov, thỉnh thoảng phát hiện các đoàn quân Nga ở phía xa bên trái hay phải, nhưng ít khi chạm trận.

Nổ lực chính của cuộc tấn công của Hồng Quân ở xa hơn về phía bắc và nam. Rõ ràng chúng tôi tiến trong một khe hở, và trực giác của "bố già" Hausser đã tìm ra đúng chỗ để QĐ vượt qua vòng vây Nga.


Khi bóng đêm đổ xuống, chúng tôi đến được làng Yefremowka, không xa từ Alexejewka, mục tiêu của ngày. "Xe Tăng Meyer" dừng chiến đoàn ở đó, vì tình hình hoàn toàn không rõ ràng.
 Thiếu Tá SS Meyer ra lệnh cho tôi bảo vệ mặt kia của ngôi làng với trung đội và vừa nói vừa cười: "Chúng ta đã bị bao vây!"

Ông ta suy luận như vậy vì từ thực tế là chiếc xe lửa chở đồ tiếp tế chưa vượt qua được và mọi thứ dường như bị khép lại phía sau chúng tôi.

Tôi dẫn 4 chiếc tăng chạy dọc theo đường chính ra ngoại vi làng mà không gặp sự khán cự nào. Rồi tôi bố trí vị trí cho các xe, 2 bên trái và 2 ben phải. Chúng hầu như không thể bị phát hiện trong bóng đêm, và chúng đã được sơn trắng và bóng của chúng tiệp vào bóng các ngôi nhà trong làng.

Sau khi nói chuyện với các trưởng xe, tôi nhìn lại về hướng địch, quan sát địa hình hơi nhấp nhô ngập tuyết trắng. Tôi để ý mọot chấm đen trên đường, ngày càng lớn và giống một chiếc xe ngưa. Nó di chuyển thẳng đến ngôi làng từ hướng Alexejewka môt cách khoang thai

Tôi nghĩ có thể chỉ là một nông dân, đang ở làng bên cạnh trở về nhà.

Tôi từ từ ung dung đi đến chiếc xe, định mang người đó về đại đội để hỏi tình hình ở Alexejewka.

Tôi lấy giọng uy quyền và kêu lên "stoy!" Cùng lúc đó, tôi nhận thấy chiếc xe chở khoảng 10 lính Nga, tất cả trang bị đến tận răng. Tôi cũng không mang cả súng ngắn, vì nó cản trở leo ra vào xe tăng nhanh chóng.

Theo bản năng, tôi đấm người tài xế ngay mặt thật mạnh và bắt đầu đánh với người Nga, anh ta cũng bất ngờ như tôi, với nắm tay. Tôi làm như vậy chỉ vì tôi nghĩ rằng những người lính Nga không có thì giờ để bắn trong lúc bất ngờ.

Trong khi những người lính Nga cố gắng nhảy ra để khỏi vướng tay chân, tôi phóng ra khỏi đám để tránh đạn từ các xe tăng của tôi, lúc này bắn vào đám lính Nga. Tôi ngã xuống đống tuyết.

Một người lính Nga dừng lại và bắn 2 viên từ khấu súng tiểu liên. Tôi cảm thấy một cú đập mạnh ở lưng.

Rồi những người lính Nga bỏ chạy. Bị thương, tôi nằm trong tuyết, cùng với 2 người lính của SĐ 320 Bộ Binh, bị người Nga bắt vừa được thoát trong sự việc hy hữu này.


Ở trạm y tế, người ta tìm thấy viên đạn nằm trong miếng xương dẹt ở vai phải và 1 viên khác trong vai trái. Người bác sĩ suy luận là 2 viên đạn vẫn còn nằm trong phổi. Khi cơn sốc dịu đi và anh ta có thể thở lại bình thường, người bác sĩ nói: "Anh thật may mắn. Bị thương ở phổi hoặc là chết, hoặc là nhẹ. Vì anh vẫn chưa chết ngay bây giờ, anh sẽ qua khỏi." Viên thiếu úy nằm trong ngôi nhà tranh cùng với một người bị thương khác, một người lính trẻ của TĐ Thám Báo Meyer. Trong đêm đó, Thiếu Úy SS von Ribbentrop lên cơn sốt.

Trung Úy SS Schulz bị chết trong trận tấn công ngày 11 tháng 2 năm 1943. Mờ sáng hôm sau, Chiến Đoàn Meyer chiến đấu trong cơn bão tuyết. Quân Nga và Đức vượt qua mặt nhau mà không phát hiện. Lúc 2 giờ chiều, cánh tiền quân đến đường xe lửa gần Oktyabrsky, khoảng 80 km phía tây của Alexejewka.

Trong ngày này QĐ của Hausser nhận lệnh của Hitler là giữ Kharkov bằng mọi giá. Tuy nhiên Paul Hasser đã vượt ra ngoài và ra lệnh lực lượng của mình rút lui để tránh khỏi bị bao vây và tiêu diệt. Tối ngày 14 tháng 2, Tham Mưu Trưởng quân đội một lần nữa trình bày tình hình tuyệt vọng trong sự cố gắng rút lại lệnh từ Hitler để bỏ Kharkov. Cố gắng của ông ta vô hiệu. Trong đêm 14-15 tháng 2, Hồng Quân tiến vào khu vực tây bắc và nam của Kharkov phía sau lực lượng Đức. Hướng tây bắc, một TĐ xe tăng của SĐ 2 Xe Tăng SS gây ra tổn thất nặng cho quân Nga, tạm thời chặn lại cuộc tấn công.

Một lần nữa QĐ báo cáo tình trạng khó khăn, nhưng đến giữa ngày 15 vẫn chưa có hồi âm từ BTL. 12:30 trưa, Hausser ra lệnh SĐ 2 Xe Tăng SS rời khỏi vị trí, rút về sông Udy và lập các vị trí mới ở đó. Với sự yểm trợ từ các xe tăng, Một sư đoàn rưỡi của QĐ II Xe Tăng SS rút ra Khảkov rồi đi về hướng đông nam. Đến 16:30, lệnh mới từ BTL đến, ra lệnh các lực lượng phòng thủ phải giữ "bằng mọi giá". Hausser trả lời: "Vấn đề đã được giải quyết: Kharkov đã được di tản!"

Sự quan trọng của sự quyết định này nằm ở chỗ giải thoát lực lượng chính của QĐ II Xe Tăng SS là cần thiết cho việc tiếp tục tấn công về phía nam và bắt tay với Phương Diện Quân Nam. Trưa hôm ấy, sau khi được đưa vào một căn nhà tranh dùng làm trạm y tế, một sĩ quan quân y đến với von Ribbentrop nói là có một chiếc Fieseler Storch vừa đậu xuống. Anh ta sẽ được đưa ra bằng máy bay. Von Ribbentrop từ chối. Anh ta lý giải rằng với tư cách là một sĩ quan, anh ta không nên là người đầu tiên được đưa ra bằng máy bay. Thay vào đó, người lính trẻ phải là người đầu tiên.

Người sĩ quan quân y, người phụ trách thương binh bất kể cấp bậc nào, tuyên bố là ông ta là người quyết định ai bị thương nặng hay nhẹ, cho nên, ai là người được bay ra trước. Sau đó người bác sĩ ra lệnh cho von Ribbentrop lên máy bay. Von Ribbentrop giải thích bình tỉnh, nhưng kiên quyết, rằng trong trường hợp đó anh ta sẽ không tuân lệnh. Cuối cùng, người sĩ quan quân y buộc phải đưa người lính trẻ, bởi vì "con bò ương bướng" - von Ribbentrop - muốn như vậy.

Không may, tình hình của chiến đoàn Meyer ngày càng tệ trong những ngày sau đó, và chiếc Storch không quay trở lại. Von Ribbentrop bắt buộc phải ở lại đơn vị. Sự cố gắng của chiến đoàn Meyer trong việc bắt liên lạc với chiến đoàn Witt tấn công về hướng bắc đã thất bại. Trong khi đó, chiến đoàn đánh về hướng Alexandrowka. Quân Nga ép và làng từ mọi hướng cố đẩy quân Đức ra khỏi làng. Tình hình của anh ta càng tệ hơn vì áo của anh ta đã bị cắt bỏ ở trạm y tế, và họ chỉ cho anh ta mặc một cái áo choàng rộng. Von Ribbentrop về bộ chỉ huy tiểu đoàn để nắm tình hình.

Chiếc xe tăng của anh ta cũng không hoạt động được, nó bị địch bắn, tháp pháo bị kẹt. Chỉ có khẩu đại liên, sử dụng bởi người lính truyền tin, là hoạt động được.

Chúng tôi đặt chiếc tăng ở vị trí mà ít ra nó có thể dùng được khẩu đại liên nếu quân Nga tiến gần đến bộ chỉ huy.

Quân Nga cố gắng xâm nhập ngôi làng từ mọi hướng. Tình hình của chiến đoàn Meyer trở nên nghiêm trọng. Khẩu đại liên trên xe tăng đã phải được sử dụng vài lần để giúp đẩy lùi quân Nga tiến đến bộ chỉ huy.

Sau 3 - 4 ngày, "Meyer Xe Tăng" chuẩn bị cho một cuộc phá vòng vây. Sẽ đi bộ, vì nhiên liệu đã cạn. Meyer đưa súng ngắn cho những người bị thương, không thể đi bộ được, và chào từ biệt với câu nói: "cho một viên đạn vào đầu sẽ tốt hơn bị giết bởi quân Nga!"

Người chỉ huy chiến đoàn quyết định vượt vòng vây qua những bãi tuyết dày với những người còn sống sót và cố đến được quân nhà. Cơ hội thành công trong việc vượt qua 30 - 40 km thật mong manh.

Đến gần trưa ngày thứ năm trong vòng vây, Kurt Meyer nói chuyện qua vô tuyến với tiểu đoàn tưởng TĐ 1, Thiếu Tá SS Max Wunsche, và diễn tả tình hình. Wunsche tuyên bố là ông ta sẵn sàng để cố gắng và phá phòng vây để cứu chúng tôi.

Meyer khẩn khoản: "Nhanh lên Max, chúng tôi sắp bị thiêu sống rồi!"

Là người ngồi nghe, điều đó đã quá rõ ràng với tôi là số mạng của chúng tôi đang treo trên sợi tơ.

Mọi người bồn chồn đợi Wunsche. Đến chiều, chiếc tăng đầu tiên xuất hiện, trong sự mừng rỡ của binh lính của chiến đoàn Meyer. Họ chạy quanh làng trong một vòng tròn lớn và đẩy quân Nga ra khỏi những ngọn đồi, nơi họ tập trung và liên tục tấn công và Alexandrowka.

Chúng tôi thấy lửa chớp và khói, và những xe tăng, xe tải bốc cháy. Chúng tôi nhìn thấy quân Nga bỏ chạy và biết là Wunsche sẽ đưa chúng tôi ra.


Rudolf von Ribbentrop tham gia trận đánh trong chiếc xe hư hại của anh ta. Anh ta nhập vào các xe tăng của Wunsche và khai hoả với khẩu súng máy khi lính Hồng Quân cố gắng quay về chiến hào của họ phía sau các xe tăng của Wunsche. Bằng cách đó, anh ta giúp mở hành lang cho chiến đoàn đang bị bao vây.

Đêm hôm sau, quân Đức rời khỏi làng theo con đường chính. Alexandrowka gần như chứng kiến ngày cùng của chiến đoàn Meyer. Thương binh được mang theo, và ngay cả các tử sĩ - trừ những người đã được chôn - cũng không để lại.

Vài tháng sau cuộc vượt vòng vây, Rudolf von Ribbentrop nghe lỏm được cuộc nói chuyện giữa một chỉ huy của đơn vị không quân trinh thám tầm gần, Thiếu Tá Rinke (người sau này trở thành bố vợ của anh ta) và người sĩ quan hành quân sư đoàn, Thiếu Tá SS Lehmann. Rinke hỏi: "Anh ta ra sao?" Von Ribbentrop nhận ra họ đang nói về mình và dỏng tai nghe. Anh ta được biết là chiếc Fieseler Storch được bay gấp vào là để đưa anh ta ra, vì sợ con trai của Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao Đức rơi vào tay quân Nga, sẽ trở thành một sự kiện lớn trong sự tuyên truyền của Nga. Von Ribbentrop nhớ lại:

Tỉnh ngủ hẳn, tôi đứng lên và bằng giọng nói và điệu bộ rất không nhà binh, trách móc người sĩ quan hành quân về việc đưa tôi vào một tình thế. Mọi người sẽ nghĩ gì về thanh danh của tôi nếu tôi nhận lời lên máy bay.

Lehmann lắng nghe sự trách móc của tôi rất lịch sự và trả lời nhã nhặn: "Đừng kích động quá ribbentrop. Anh là người của chúng tôi, đó là những gì tôi lo lắng, nó không có gì dính dáng đến địa vị của bố anh."
 
Trong đêm đó, lực lượng của Meyer đến được phòng tuyến Đức. Những ngày sau đó quân Nga tấn công liên miên. Ở hướng đông của Nowaja Vodolaga, Ribbentrop tấn công một nhóm quân địch mạnh đang cố đè bẹp một lực lượng Đức nhỏ trên một ngọn đồi. Qua ống dòm von Ribbentrop có thể thấy quân Nga đang tập trung quân cho đợt tấn công cuối.

"Đạp ga! Mọi người theo tôi!"

"Mọi người" ở đây là 2 xe tăng chạy theo xe trung đội trưởng, lúc này đã chạy về hướng đội hình chính của địch. "Tản ra và bắn theo ý mình!" von Ribbentrop ra lệnh.

Những viên đạn nổ nổ vào nhóm đông nhất của địch. Binh lính Nga quay người bỏ chạy, nhưng điều này họ lại phơi mình ra trước mấy khẩu súng máy của 3 xe tăng đang nổ súng. Quân địch hoàn toàn bị xoá sạch và tình thế được cứu vãn; nhóm quân nhỏ rút ra được khỏi ngọn đồi và nhập lại với đơn vị của họ. Những cuộc chạm trán nhỏ như thế xảy ra rất thường. Quân tấn công bị chùn lại bởi lực lượng phòng thủ ương ngạnh. Không đủ lực lượng áp đảo để tạo ra một lỗ thủng quyết định, quân Nga liên tục bị đẩy lùi.

Hai ngày sau, quân Nga lại cố gắng chọc thủng tuyến, lần này với lực lượng mạnh hơn. Mũi dùi chính chạy ngay thẳng vào Đại Đội 7 Trung Đoàn 1 Xe Tăng SS, họ đưa hết toàn bộ xe đang có ra ngăn chặn cuộc tấn công. Dù gặp phải sự chống trả mãnh liệt, Hồng Quân ào qua phòng tuyến. Thiếu Úy SS Alt, chỉ huy Đại Đội 7, bị tử trận. Đại Đội 6 lăn bánh từ vị trí và tung vào chặn địch. Lúc này, quân tấn công đã di chuyển thành một hàng dọc, hình như họ đang tìm một vị trí phòng thủ.

Các xe tăng phóng vào đội hình và dọc theo hai bên ở tốc độ cao. Quan Nga phóng người xuống tuyết và giả chết. Những tràng súng máy làm họ buộc phải bỏ trò này , và đơn vị Soviet mau chóng bị tiêu diệt. Vài nhóm nhỏ bỏ chạy vào khe núi. Nhưng ở đây họ lại gặp phải lính đầu bếp, tài xế, và các bộ phận hậu quân của quân Đức và bị tiêu diệt. Quân Nga tiến lên vài km hai bên ngôi làng Nowaja Vodolaga, và quân phòng thủ buộc phải rút lui. Ngôi làng bị pháo hàng giờ. Khi ngôi nhà đầu tiên bốc cháy, không mất nhiều thời gian để cả ngôi làng biến thành cơn bão lửa.

Cuộc rút lui rất khó khăn trong cơn lạnh cóng. 3 - 4 chiếc trong số xe tăng ít ỏi của tiểu đoàn 2 bị trượt khỏi con đường chật hẹp đóng băng mà họ bắt buộc phải đi qua. Hơn nữa, khói từ ngôi làng bốc cháy và sương mù làm giảm tầm nhìn. Phải lấy 3 xe tăng để kéo 1 chiếc trượt ra khỏi đường. Khói và sương mù càng làm cho công việc kéo xe khó khăn hơn. Nếu quân Nga tấn công trong tình hình này thì cả đơn vị sẽ bị xoá sổ. Tuy nhiên, sự lo sợ bị tấn công đã không xảy ra. Sáng hôm sau, binh lính và xe tăng đến được nơi chỉ định và họ chuẩn bị cho cuộc hành quân sắp tới.

Ngày 17 tháng 2 năm 1943, BTL QĐ II Xe Tăng SS đưa ra lệnh cho ngày hôm đó:

Trong những trận tấn công và phòng thủ liên tục từ ngày 30 tháng 1 năm 1943, QĐ II Xe Tăng SS đã chặn được cuộc tấn công dữ dội của 3 tập đoàn quân Nga và gây tổn thất nặng cho quân địch. Một quân đoàn kỵ binh gần như bị tiêu diệt hoàn toàn.

Làn đầu tiên SĐ 1 Xe Tăng SS và SĐ 2 Xe Tăng SS kề vai chiến đấu. Sau đó họ được tăng cường thêm SĐ 3 Xe Tăng Xung Kích SS Totenkopf. Tất cả các đơn vị đã thể hiện một cách xuất sắc trong mấy tuần gian khổ vừa qua và, mặc dù các đơn vị bị lẫn vào nhau, họ vẫn làm được việc chỉ huy và kiểm soát tình hình khó khăn, đã thành công trong cuộc tấn công quyết định. Kề vai với những trung đoàn và tiểu đoàn đầy kinh nghiệm chiến đấu, những đơn vị tân lập, nhất là các trung đoàn xe tăng và tiểu đoàn bộ binh, đã trải qua các thử thách chiến trường trong điều kiện địa hình khó khăn nhất. Một lần nữa, các binh lính xe tăng xung kích đã trưởng thành trong chiến đấu.

Chiến đấu bên cạnh hàng ngủ của các đơn vị Waffen-SS, các thành phần của các SĐ 213 và 298 bộ binh cũng đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng chung.

Trong vòng mười ngày, SĐ 320 bộ binh, vừa được nhập vào quân đoàn, đã giải toả được cánh nam của quân đoàn bằng cách đánh vượt qua được trong những điều kiện khắc nghiệt nhất.

Gởi đến các chỉ huy và binh lính trong các đơn vị, tôi xin hoàn toàn ghi nhận những thành quả của các anh em đã gặt hái trong những tuần khó khăn vừa qua.

(Ký tên) Hausser

Trung Tướng SS. 
 
Với Đại Đội 7 Trong Trận Tấn Công Kharkov

Ngày 1 tháng 3 năm 1943 Rudolf von Ribbentrop trở thành người thay thế Thiếu Úy SS Alt chỉ huy Đại Đội 7 Trung Đoàn 1 Xe Tăng SS. Trận phản công mà Hausser đã lên kế hoạch từ khi cãi lệnh Hitler và rút 2 sư đoàn của mình ra khỏi túi Kharkov, được bắt đầu. Đoạn diễn tả trận đánh sau là từ nhật ký của Rudolf von Ribbentrop:

Hai sĩ quan đại đội của tôi là Thiếu Úy SS Stollmeier và Thiếu Úy SS Sternebeck. Cả hai là những người lính xuất sắc và là sĩ quan kinh nghiệm mà tôi biết rất rõ từ khi còn là trung đội trưởng Trung Đội 1 từ lúc thành lập đơn vị. Ngày đầu tiên, chúng tôi được điều động làm đại đội mũi nhọn. Chúng tôi nhanh chóng tiến lên phía bắc theo hướng Walki. Ngôi làng bị tấn công ngay lập tức từ hướng tây bởi Tiểu Đoàn 1.

Chúng tôi đến vùng phía trên Walki, nằm trong một thung lũng. Khi chúng tôi lập một vòng cung, tôi nằm ở đầu - thung lũng hiện ra phía xa bên dưới. Nó lấm chấn những bộ binh Nga đang rút lui.

"Bắn!" Tôi ra lệnh. Tất cả xe tăng nổ súng nhằm mục đích không cho địch rút về Walki và thiết lập phòng tuyến ở đó, gây đặc biệt nguy hiểm cho Tiểu Đoàn 1.

Với tôi, điều quan trọng là quan sát những kết quả giới hạn của mấy khẩu súng máy bắn ở khoảng cách 200 đến 400 mét chống lại bộ binh đang chạy trong đội hình tản mác trong một khoảng rộng vượt qua khoảng trống rộng.

Chắc quân Nga bị thiệt hại đáng kể, nhưng phần lớn bộ binh địch đến được Walki bất chấp hỏa lực dày đặc của chúng tôi. Chúng tôi không biết là quân Nga chạm vớiTiểu Đoàn 1, lúc này đã vào trong làng, hay không, hay họ tìm được nơi trú ẩn trong các nhà và tổ chức phòng thủ ở đó.

Tuy nhiên, điều chắc chắn là, theo những người lính tăng của Tiểu Đoàn 1: Kết quả của sự can thiệp nhanh chóng, Đại Đội 7 đã ngăn cản một số lớn quân địch tình cờ chạy vào làng và gây khó khăn cho họ. Cuộc tấn công được tiếp tục vào ngày hôm sau. Các xe tăng tiếng dọc theo con đường Walki - Lubotin. Một vị trí chống tăng được phát hiện và von Ribbentrop ra lệnh các xe tăng mình tấn công. Các xe tăng tản ra. Họ linh động vận động độc lập ngừng - bắn và làm trận đia chống tăng im lặng. Tuy nhiên, Hồng Quân thành công trong việc ngăn cản cuộc tấn công cho đến buổi chiều. Và cuộc tiến quân tiếp tục, một lần nữa, Đại Đội 7 dẫn đầu.

Ở cửa ngỏ Lubotin, Đại Đội 7 chạm trán với một vành đai chống tăng khác. Vành đai này cũng bị im tiếng bởi hỏa lực tập trung của các xe tăng, một lần nữa không bị thiệt hại nào khi đối mặt với súng chống tăng. Lúc này không có liên lạc vô tuyến với tiểu đoàn, có thể vì địa hình bất lợi. Một lần nữa, Rudolf von Ribbentrop viết:

Trước mặt tôi là ngôi làng Lubotin rộng lớn. qua ống dòm, tôi có thể nhìn thấy lính Nga khắp nơi. Cả ngôi làng dường như chật ních bởi lính Nga. Tất cả bọn họ đang di chuyển về phía đông bắc và cho thấy họ rút khỏi Lubotin.

Trong khi tôi đang cân nhắc xem có nên tiến vào Lubotin với 3 chiếc tăng của tôi mà không đợi lệnh - điều không thể không nguy hiểm vì chúng tôi đã dùng hết số đạn nổ - Thiếu Úy SS Stollmeier, người đi ngay phía sau tôi, cảnh báo bằng vô tuyến là Đại Tá SS Witt, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 1 Xe Tăng SS, đang ở bên ngoài xe tăng của tôi.

Witt, một người lính cực kỳ can đảm, đã di chuyển lên phía trước trên chiếc xe chỉ huy và, khi tôi nhìn qua nắp tháp pháo, ông ta nói: "Ribbentrop, chúng ta phải chiếm Lubotin!"

"Chúng tôi hết đạn nổ, thưa Đại Tá!" Tôi lưu ý.

Ông ta trả lời khô khan: "Có thể, nhưng chúng ta phải chiếm cho được Lubotin!"

Tốt lắm! Tôi nghĩ thầm, nếu phải chiếm Lubotin thì phải tiến vào. Tôi truyền lệnh và đến đó thì chúng tôi lao vào cuộc chạy đua vào giữa đám quân Nga. Cơ hội duy nhất để tránh khỏi những tay diệt tăng Nga là tốc độ, lợi thế mà chúng tôi cố gắng khai thác.

Từ đâu đó, một trung sĩ công binh chiến đấu SS nhảy lên phía sau xe tăng của tôi. Với anh ta trên xe, chúng tôi vượt qua ngôi làng Lubotin dài một cây số, vừa chạy vừa bắn tứ tung. Vì hết đạn nổ, chúng tôi phải nạp đạn xuyên thép, ít tác dụng đối với súng chống tăng.

Chúng tổi chạy qua một đường vòng và bỗng thấy cách chúng tôi là một khẩu chống tăng đang sẵn sàng bắn.

Điều cuối cùng mà chúng tôi có thể nhìn là một quả cầu lửa, nếu bị trúng đạn, vì bị trúng đạn ở khoảng cách này từ khẩu súng chống tăng hạng nặng Nga - khẩu Ratchsbum - có thể làm thổi chúng tôi thành từng mảnh.

Người trung sĩ nhảy xuống xe tăng và tấn công khẩu chống tăng bằng lựu đạn. Sau tiếng nổ đầu tiên, lính chống tăng bỏ súng và chạy vào ngôi nhà tìm chỗ trốn.

Con người dũng cảm này, tôi không bao giờ được biết tên anh ta, đã cứu mạng chúng tôi.
Chúng tôi chạy đua xuyên qua Lubotin. Quân Nga bỏ chạy khắp nơi trước mặt xe tăng chúng tôi. Quẹo một đường vòng khác, lần này gần đến ngoại vi của ngôi làng, chúng tôi cạhy vào một đoàn quân Nga đang rút lui. Khi tôi dừng để cho súng máy tác xạ, Stollmeier vượt qua mặt tôi và chạy vào giữa đội hình. Anh ta đứng trên tháp pháo, bắn bằng khẩu súng ngắn của mình và la lên: "Rucki werch!"

Lính Nga đưa tay lên hàng hoạc bỏ chạy. tuy nhiên, một người lính chạy đến xe tăng của Stolleier, súng trên tay. Stolleier ném khẩu súng ngắn đã hết đạn vào mặt người lính Nga, làm anh ta bỏ chạy. Bất ngờ, một quả lựu đạn nổ phía trước xe tăng, và Stollmeier bị trúng mảnh ở má.

Lệnh đến bằng vô tuyến gọi chúng tôi dừng lại, mặc dù trong bóng đêm đang đổ xuống, chúng tôi có thể nghe tiến quân Nga, đang nấp ở một trong những chiếc xe tăng Nga bỏ trống cách đó vài trăm mét trước mặt.

Một lúc sau đoàn xe tiếp tế đế nơi. Chúng tôi đổ xăng và nhận đạn bổ sung. Sau đó nhận nhiệm vụ mới. Chúng tôi sẽ tiến lên theo đội hình hình cung rộng về phía bắc gần Kharkov và đến làng Dergatchi.

Chúng tôi tiến lên, lúc đó trời bắt đầu đổ tuyết. Không có bản đồ đầy đủ, cuộc tiến quân đêm trở thành cơn ác mộng. Nhưng chúng tôi phải hoàn thành mệnh lệnh để ở vào vị trí ngày hôm sau cho cuộc tấn công kế tiếp.

Định hướng trong cuộc hành quân đêm là một tai họa. Trời tối đen và tuyết. Một lần nữa chúng tôi làm đại đội mũi nhọn. Đó là một vinh dự, nhưng cũng là gánh nặng lớn. Tôi sẽ không bao giờ quên những suy nghĩ trong đầu trong cuộc hành quân đó. Người lính truyền tin ngồi im lặng thoải mái trong buồn lái, đọc hay uống cà phê, trong khi tôi, ướt sũng và lạnh tê, đứng ở nắp tháp pháo và cố gắng tìm lối đi đúng. Rõ ràng là tôi mang một trách nhiệm to lớn: Cả tiểu đoàn phía sau tôi và dựa vào tôi. Thật không dám nghĩ đến những gì có thể xảy ra vào sáng hôm sau nếu chúng tôi không đúng chỗ. Đó chỉ là một trong những điều điều hỏi ở các chỉ huy cấp dưới, và nhất là các trưởng xe.

Trong đêm chúng tôi đến được Dergatchi và bác liên lạc với tiểu đoàn bộ binh của Thiếu Tá SS Max Hansen (Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn Xe Tăng Xung Kích SS).

Lính xe tăng xung kích chuẩn bị tấn công khi có tia sáng đầu tiên. Vì không thể được lương thực lên tuyến trước, chúng tôi phải dùng thức ăn khẩn cấp đựng trong thùng chứa để vừa phía sau tháp pháo của bất cứ chiếc tăng nào.

Sáng hôm sau tôi chứng kiến sự bất đồng ý kiến giữa tiểu đoàn trưởng chúng tôi và tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn xung kích. Hai người không đồng ý về kách tấn công. Tiểu đoàn trưởng chúng tôi kết thúc cuộc tranh luận bằng cách ra lệnh cho tôi tiến vào làng theo con đường. Tôi sẽ tiến qua bên kia làng, và sẽ nhập vào cuộc tấn công với lính xung kích.

Tôi nhớ là chúng tôi có 3 hay 4 xe tăng lúc đó. Một là của Stollmeier, chiếc thứ hai của Sternebeck; chiếc thứ ba của Trung Sĩ SS Killat.

Chúng tôi tiến vào làng theo con đường hẹp một cách bất thường. Những hàng rào vụt qua hai bên. qua những khoảng giữa hai hàng rào, chúng tôi có thể nhìn thấy lính Nga, quăng lựu đạn và bắn súng cá nhân. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe tiến nổ của súng trường chống tăng.

Bổn nhiênm, tấm kiếng dày khoảng 8 cm của khe nhìn phía trước bị nức. Một viên đạn từ súng trường chống tăng tủng ngay vòm tháp pháo.

Tấm kiếng được thay nhanh chóng. Tuy nhiên, không có bộ binh chúng tôi hoàn toàn bất lực khi chống lại bộ binh Nga. Thỉnh thoảng chúng tôi lại bắn vào các hàng rào. Điều này có tác dụng rất ít và được làm như vậy chủ yếu là để giữ tinh thần chúng tôi.

Rồi một tiếng nổ dữ dội khác. Chúng tôi bị trúng đạn. Trong tầm của lính Nga, bỏ xe bây giờ có nghĩa là cầm lấy cái chết. Tuy nhiên, máy vẫn tiếp tục chạy bình thường và tháp pháo vẫn xoay được. Tôi gọi Stollmeier bằng vô tuyến - anh ta đi phía sau tôi - và hỏi chuyện gì xảy ra.

Anh ta trả lời khô rốc: " Tôi bắn một lính Nga ra khỏi xe tăng của anh bằng một viên đạn nổ. Hắn ta định đốt xe anh với chai cháy."

"Anh có thể làm điều đó bằng súng máy mà!" Tôi nói lại.

"Súng máy kẹt đạn và tôi phải làm gấp, nên tôi bắn HE," Anh ta trả lời.

Tôi quyết định chạy qua làng bằng tốc độ tối đa, vì bộ binh Nga - nếu họ được cung cấp bằng vũ khí chống tăng - là thần chết đối với tăng không có bộ binh yểm trợ

Lệnh kế tiếp của tôi là: "Đạp ga! theo sát nhau! các xe tăng bảo vệ lẫn nhau!"

Khi đến đầu bên kia ngôi làng, chúng tôi lái vào trong đội hình rút lui của quân Nga. Lính địch bắn vài tràn vào chúng tôi, rồi chạy về mọi hướng.
Càng nhanh càng tốt, chúng tôi di chuyển ra khỏi làng và chạy ra một cánh đồng trống, đủ xa để chặn được lính Nga đang rút lui vẫn còn ở trong làng và để phòng học xâm nhập và tuyến phòng thủ của chúng tôi. Chúng tôi vừa đến một ngọn đồi nhỏ, bỗng gặp một trung đội từ tiểu đoàn thám báo của chúng tôi, được nhận ra bỡi những chiếc xe bánh lớn Schwimmwagen, xuất hiện về phía bên phải, di chuyển hết tốc độ qua cánh đồng trống. Họ đến gần và ồn ào vượt qua về phía con đường Kharkov-Belgorod. Sau này chúng tôi được biết là trung đội này đang thám thính. Từ họ, chúng tôi được biết về tình hình của Tiểu Đoàn 1. Tôi lập tức báo tin tức cho chỉ huy của chúng tôi qua vô tuyến.

Chúng tôi tiếp tục di chuyển, Mục tiêu kết tiếp là Cherkasskoje, Quân địch bị tràn ngập nhanh chóng. Bị tấn công bất ngờ, quân địch bỏ chạy.

Ngay sau đó, chúng tôi đến được con đường Kharkov-Belgorod. chúng tôi quẹo về hướng nam và tiêu diệt vài xe tăng địch đang chạy về hướng Kharkov. [Theo báo cáo của người chỉ huy đơn vị xe tăng này, 2 chiếc bị von Ribbentrop tiêu diệt]. Rồi chúng tôi đến được sân bay Kharkov, và ngủ đêm bên trong xe tăng. Chúng tôi giật mình bởi một nhóm xe tăng địch, xuất hiện từ chui từ đất lên (nguyên văn appeared from nowhere). Chúng gầm rú tràn đến rồi lại biến mất.

Sáng hôm sau, chúng tôi theo sau một trung đoàn lính xung kích tấn công vào Kharkov. Đại đội chúng tôi cung cấp yểm trợ. Chúng tôi di chuyển dọc theo con đường phía sau lính xung kích tiến phía trước.

Cuộc tiến quân tạm dừng lại khi lính xung kích báo cáo xe T-34 địch "chôn" ở những dãy nhà ngay trước mặt họ.

Trong lúc đó, pháo binh chúng tôi bắt đầu khai hoả. Tuy nhiên, chúng tôi không ảo tưởng về kết quả của pháo binh bắn vào T-34. Để làm câm một chiếc tăng đã chôn cần phải bắn trúng từ phía trên.

Bất ngờ, một trong những chiếc Tiger đầu tiên được đưa vào mặt trận phía Đông xuất hiện trên con đường phía sau chúng tôi. Nó được nhiệm vụ tiêu diệt những chiếc T-34 ngăn chặn cuộc tiến quân.

Chiếc tăng đồ sộ với khẩu pháo dài chạy vượt qua với tốc độ cao. Nó dừng lại phía trước chúng tôi chừng 200 mét và bắn. Tiếng đạn bắn đi gần như nổ cùng lúc với tiếng đạn chạm mục tiêu. Chiếc Tiger chạy một khoảng ngắn, lại dừng và bắn. Một lần nữa, tiếng súng và đạn nổ gần như cùng một lúc. Sự vận động này lặp đi lặp lại chừng chục lần.

Khi chiếc Tiger chạy lui lại, khẩu súng khổng lồ của nó chỉa qua một bên. Đến bên cạnh chúng tôi, trưởng xe, hình như bị thương, nói là bị trúng đạn ở tấm chắn phía trước và khẩu súng bị sư hại và anh ta bắt buộc phải rút lui. Viện đạn không may này làm cho người xa thủ bị chết và xa trưởng bị thương ở chân. 
 
Chúng tôi đang đứng cạnh con đường, bỗng Đại Tá SS Witt - đang nhảy từ hố này sáng hố kia giữa cơn pháo, đến gần chúng tôi từ hướng tiền duyên với người sĩ quan hành quân của ông ta, một trung uý già. Cười, và không có mũ và nịt, ông nói chúng tôi là lính Nga đã làm việc rất tốt là làm ông ta phải bò. Ông ta đã ra tuyến đầu để tự mình coi tình hình cuộc tấn công. Với binh lính dưới quyền đang bị pháo, điều này rất có ý nghĩa.

Witt là một người chỉ huy bộ binh xuất sắc. Ông ta là một người rất can trường, bình tỉnh và thận trọng. Binh lính dưới quyền của ông ta đều biết rằng tất cả các lệnh của ông đưa ra đều được cân nhắc cẩn thận và ông ta không liều mạng khi không cần thiết. Điều nổi bật này tạo thạnh sự thành công cho ông và cho trung đoàn.

Đến chiều thì cuộc tấn công của một đơn vị phía bên phải chúng tôi bắt đầu. Đó là Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 1 SS Xung Kích, chỉ huy bởi Thiếu Tá SS Hansen. Quân Nga bắn trả giảm dần, và khi chiều tà, lính xung kích bắt đầu xâm nhập và dãy nhà đầu tiên. Chúng tôi nhận lệnh tiến lên và yểm trợ họ cho đến quảng trường Đỏ. Một lần nữa, chúng tôi tiến vào thành phố ở tốc độ nhanh. Bỗng nhiên, một vật chắn hiện ra phía trước. Quân Nga chặn con đường chính với một chiếc xe tăng KV-I bỏ trống, chiếc xe tăng hạng nặng nhất của Nga.

Lính xung kích tiến qua chướng ngại vật, trong khi tổ lái và tôi-trừ người tài xế- leo ra vào nối dây kéo vào chiếc KV-I để kéo ra khỏi đường để ba chiếc xe tăng của chúng tôi qua. Chúng tôi vừa kéo chiếc tăng ra khỏi con đường, Stollmeier, trưởng xe chiếc thứ nhì, bắt đầu di chuyển. Anh ta nói với tôi là sẽ yểm trợ cho bộ binh; tôi đồng ý và gọi anh ta: "Cẩn thận!"

Stollmeier chạy vào dọc con đường hẹp. Hầu như không động tỉnh gì, nhưng mặt khác, sự nguy hiểm đang ẩn nấp phía bên kia vì rằng anh ta, không có sự yểm trợ của bộ binh, có thể không đương đầu được.

Stollmeier chứng tỏ là một người liều lĩnh. má anh ta vẫn còn sưng vì bị mảnh lựu đạn, nhưng anh ta từ chối không rời đơn vị để điều trị.

Khi chúng tôi đang leo vào xe tăng sau khi xếp sợi dây kéo, một quả đạn chống tăng bất ngờ rít qua đầu. Stollmeier rõ ràng là chạy vào một ổ súng chống tăng, nó vừa bắn vào anh ta.

Khi chúng tôi di chuyển qua đoạn đường cong, chúng tôi thấy chiếc tăng của anh ta đang bốc cháy. Một lúc sau, người tài xế và người lính truyền tin xuất hiện và báo cáo là Stollmeier đụng phải một chướng ngại vật khác, lần này bao gồm một chiếc T-34. Stollmeier lập tức khai hoả. Anh ta đang hướng dẫn người xạ thủ chỉnh tầm thì bị trúng vào tháp pháo, giết tất cả mọi người bên trong. Chiếc tăng hoàn toàn bốc cháy. Ngày hôm sau, sau khi chiếm được quảng trường Đỏ, chúng tôi tìm ra xác đã thành than của Stollmeier, được nhận ra qua những gì còn lại của ống nghe truyền tin trên đầu.

Chúng ta ngủ đêm trong những căn nhà về phía Bắc của quảng trường Đỏ với lính xung kích. Đêm đó lạnh, rất lạnh để rơi vào giấc ngủ. Chúng tôi đau đớn về những đồng đội đã ngã xuống và cố gắng nghỉ ngơi, vì cuộc chiến sẽ tiếp tục vào ngày mai.

Sáng hôm sau chúng tôi yểm trợ lính xung kích khi họ tiếp tục lục soát những khu nhà và tiêu diệt những ổ đề kháng. Trận đánh tiêu diệt các ổ đề kháng trong các toà nhà diễn ra tốt đẹp và tôi ra lệnh cho các tổ lái tuyệt đối ở bên trong xe tăng. Trước đó không lâu, trung sĩ SS Killat đã bị thương ở cánh tay vì mảnh lựu đạn trong khi anh ta nhìn ra bên ngoài xe tăng.

Đến tối thì sự kháng cự của quân Nga giảm hẳn. Kharkov hoàn toàn bị chiếm. Tuy nhiên, với chúng tôi thì trận đánh vẫn chưa kết thúc. Sáng hôm sau chúng tôi nhận lệnh đi với một trung đội xung kích giải toả một nông trường lớn về phía đông của thành phố. Chúng tôi không làm được việc gì lớn, nhưng bị thiệt hại vì lính bắn tỉa Nga bắn từ những vị trí được ngụy trang kỹ ở các khu chung cư, nhà, kho, và chuồng ngựa. Một xạ thủ bị bắn chết khi anh ta mở nắp xe tăng và định nói gì đó với lính xung kích. 
 
Đoạn trích này từ nhật ký của von Robbentrop đã minh họa một cách sinh động về những hoạt động của xe tăng khi lâm chiến trong trận tái chiếm Kharkov. Điều rõ ràng từ sự tường thuật chi tiết là con số xe tăng ít ỏi đã làm đóng góp quyết định trong chiến dịch, cung cấp sự yểm trợ giá trị cho lực lượng bộ binh.

Những chiến dịch này khác xa với những gì đã được dự tính bởi tướng Heinz Guderian và những người sáng tạo ra lực lượng thiết giáp: là, đột kích độc lập sâu vào hậu phương địch. Chiến thuật được diễn tả bởi von Ribbentrop là những phản ứng trong tình hình tại chỗ và chứng minh rằng xe tăng có thể cung cấp sự yểm trợ sống còn trong nhiều vai trò hơn là những gì chúng được thiết kế.

Ngày 17 tháng 3, Chiến Đoàn Peiper, Tiểu Đoàn 3 Thiết Giáp của Trung Đoàn 2 SS Xe Tăng Xung Kích, tiếp tục tấn công về hướng bắc theo hướng Belgorod. Được tăng cường yểm trợ cuộc tấn công là Đại Đội 1, Trung Đoàn 1 SS Xe Tăng, dưới sự chỉ huy của Trung Úy SS von Ribbentrop. Vì điều kiện đường xá tệ hại, chiến đoàn đã không đến được đoạn cong trên con đường hướng tây nam của Nekotajewka cho đến khi bóng đêm đổ xuống. Ngay phía nam của đoạn đường cong, chiến đoàn chạy vào một tuyến chống tăng của quân Nga. Tiểu Đoàn của Peiper chọc thủng vị trí của quân Nga, được yểm trợ của các xe tăng của Đại Đội von Ribbentrop.

Tuyến vừa chiếm được phòng thủ qua đêm. Lực lượng Peiper được tăng cường bởi Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn 2 SS Xe Tăng Xung Kích. Mục tiêu kế tiếp của Sư Đoàn Leibstandarte là Belgorod. Thành phố sẽ bị tấn công cùng với Sư Đoàn Xung Kích Groβdeutschland. Chiến đoàn nhận lệnh cho ngày 19 tháng 3: "Chiếm khu vực bắc của Belgorod." Ngày 20 tháng 3, Trung Đoàn 1 SS Xe Tăng Xung Kích được lệnh tung một tiểu đoàn cho Trung Đoàn 2 SS Xe Tăng Xung Kích ở Mikojanowka.

Chiều ngày 19 tháng 3, Tiểu Đoàn 3 (thiết giáp) của Trung Đoàn 2 SS Xe Tăng Xung Kích, tiến lên với đại đội của von Ribbentrop và 2 xe Tiger. Đến Streletskoje thì chạm tráng với xe tăng Nga. 7 xe tăng Nga bị tiêu diệt, đổi lại 1 chiếc xe bọc thép bị cháy. Đại đội von Ribbentrop không bị thiệt hại nào. Quân Nga phá hủy cây cầu ở Streletskoje. Tiểu đoàn rút về khu phía đông của thị trấn để qua đêm.

Sau khi rút lui, Peiper ra lệnh đến chỗ chiếc xe bọc thép bị trúng đạn, von Ribbentrop tình nguyện đi để coi thử có ai bị thương không. Không may, tất cả những gì von Ribbentrop có thể mang về là vài sổ lương và thẻ bài (nguyên văn identity disks). Không có ai sống sót.

Sau đây là lời diễn tả của von Ribbentrop trong trận đánh:
 
Sau khi chiếm được Kharkov chúng tôi được điều lên hướng bắc hướng Belgorod để yểm trợ Trung Đoàn 2 SS Xe Tăng Xung Kích của sư đoàn trong khi họ cố gắng chọc thủng phòng tuyến Nga. Chúng tôi tiến hành cuộc tấn công với các xe bọc thép của tiểu đoàn Peiper. Khi chúng tôi vượt qua một khoảng đất cao, nổi lên giữa địa hình xung quanh về hướng một ngôi làng, chúng tôi chạy vào vành đai chống thăng quân Nga đã dàn sẵn bên ngoài ngôi làng.

Họ lập tức nổ súng. Những chiếc xe bọc thép tiến lên theo đường zigzag. Đạn khói được bắn ra nhằm tránh đạn địch, cách đó chừng vài trăm mét. Đây là chiến thuật mà lính xung kích của Peiper sử dụng khi họ hoạt động không có xe tăng, và nó thường giúp họ tránh thiệt hại nặng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, nó làm tầm ngắm các xe tăng của tôi bị khó khăn. Nhưng họ thì không có vấn đề gì khi loại vành đai chống tăng khỏi vòng chiến. Họ chỉ đơn giản tiến qua vành đai khói và bắn vào quân địch khi họ hiện ra.


Chiếc xe tăng chỉ huy cũng có vai trò trong việc làm im lặng vành đai chống tăng, mặc dù anh ta không công nhận điều đó. Với von Ribbentrop thì đại đội của anh ta là một khối đồng nhất, và chiến thắng được báo công cho toàn đơn vị hơn là một cá nhân. Được biết là anh ta thường chỉ công nhận một vai trò nhỏ của cá nhân mình trong những chiến thắng khó khăn, ví dụn như đè đẹp một tuyến chống trăng. Súng chống tăng của địch, nhất là súng hạng nặng, thường được đặt trong những vị trí được ngụy trang kỹ và phục kích thiết giáp Đức, là đối tượng nguy hiểm hơn là tăng địch. Cho nên, tiêt diệt được loại vũ khí này của Nga được đánh giá cao trong lực lượng quân sự Đức.

Những pháo thủ Nga còn sống sót bỏ chạy vào làng. Ngưởi đại đội trưởng lính xung kích gọi: "Truy kích chúng, Ribbentrop!"

Người sĩ quan xung kích thiết giáp nhận xét:" Tôi luôn có cảm giác mừng rỡ khi nghe tiếng súng nổ từ xe tăng ta, trong những trường hợp cần phải triệt hạ những vành đai chống tăng hiểm nghèo này cho chúng tôi."

Von Ribbentrop tiếp tục lời kể của mình:
  

Mặc dù bị cản trở bởi con suối sâu trong thung lũng, chúng tôi nhanh chóng chiếm được mục tiêu cả ngày, với lính xung kích thiết giáp đi ngay sát phía sau. Một lần nữa, chúng tôi phải ngủ đêm bên trong xe tăng. So với lính xung kích, họ bắt buộc phải ngủ trong những hố tuyết được đào vội vàng, thì chúng tôi thoải mái hơn nhiều.

Sáng hôm sau chúng tôi tiến quân với bầu trời quang đãng cùng với tiểu đoàn của Peiper để chọc thủng vào Belgorod. Được tăng cường bởi 3 chiếc máy bay Bf-110 cận yểm, thỉnh thoảng lại bắn trái khói vào những nơi có vị trí quân địch, chúng tôi di chuyển lên hướng bắc dọc theo con đường chính với sự chống cự không đáng kể. Khoảng được 20km chúng tôi đi qua một ngôi làng. Một số xe tăng T-34 trống rỗng bỏ lại ở rìa làng. Rõ ràng đây là một vị trí bảo quản, dùng để sửa xe bị hư hại trong chiến đấu.

Dẫn đầu, tôi lăn bánh vào làng. Chiếc xe tăng địch đầu tiên xuất hiện trước mũi súng nhận một viên đạn bắn thẳng và bùng cháy. Bóng dáng lính Nga bỏ chạy tán loạn để tránh bị cáng. Người nạp đạn đặt viên đạn kế tiếp. Tôi chỉ mục tiêu kế tiếp: "Một nửa bên phải, 250 phía trước!"

Xạ thủ đã có mục tiêu trong máy ngắm. Tiếng nổ khi đạn rời nòng và tiếng nổ ở mục tiêu gần như cùng một lúc như sấm. Vỏ đạn rơi loảng xoảng vào túi bạt. Chiếc xe tăng lắc lư về phía trước. Một hay hai viên đạn từ súng trường chống tăng bay vèo qua, một viên khác trúng tháp pháo nhưng quá góc nên bị dội ra.

Chúng tôi tiếp tục lăn bánh. Chúng tôi có thể nghe các xe tăng bắn từ phía sau chúng tôi khi họ gặp xe tăng địch. Chúng tôi không tốn thời giờ với họ, vì mục tiêu của chúng tôi là Belgorod.

Hình như lính Xung kích thiết giáp không thành công trong việc tiêu diệt tất cả xe tăng Nga. Sau khi chiếm được Belgorod, chúng tôi được biết là chỉ sau khi chúng tôi vượt qua là một trận đánh dữ dội ở nơi con đường chính. Những đơn vị tiếp theo chạm trán với một số T-34 và phải tiêu diệt chúng trước khi có thể đi tiếp.

Chúng tôi tiếp tục với nhịp độ nhanh. Chiếc xe bọc thép của huyền thoại Jochen Peiper, người sau này làm chỉ huy một trung đoàn xe tăng, ở bên phải chúng tôi.

Không có sự nguy hiểm của sự phục kích, vì địa hình trống và tuyết phủ. Thêm vào đó, 3 chiếc Bf-110 vẫn trên đầu và báo về bất cứ dấu hiệu nào của địch.

Khi đến Belgorod chúng tôi nhận thấy là quân địch đã rời bỏ thành phố. Người lính Nga duy nhất mà chúng tôi thấy là một thiếu úy Nga, chắc lên đường trể, xe tải của anh ta chạy ngay trước mũi súng của các xe bọc thép.

Từ các điểm cao ở sông Donet, chúng tôi có thể nhìn thấy hững đoàn xe Nga ở phía xa, tất cả đang rút lui về hướng bắc. Chúng tôi bắn vài trái đạn nổ về phía địch, nhưng không kết qua vì khoảng cách quá xa. Tuy nhiên, chúng tôi làm tốc độ của quân Nga nhanh hơn.

Buổi chiều, chúng tôi được lệnh tung ra một cuộc tấn công trợ giúp cho Sư Đoàn Xe Tăng Xung Kích Groβdeutschland. Thiếu Úy SS Ekkehard tiêu diệt 3 chiếc T-34 được dàn để bảo vệ sườn cho quân Nga rút lui về hưóng bắc. Những chiếc xe tăng này đã được ngụy trang kín đáo chỗ những đống rơm, và ánh mặt trời buổi chiều tối làm cho chúng khó thấy hơn. Tuy nhiên, Ekkehard phát hiện khói xả từ ống xả. Khói được nhìn thấy phía trên của đống rơm trong không khí lạnh mùa đông.

Anh ta chạy về hướng địch ở tốc độ cao và dừng lại để bắn. Người xạ thủ bắn cháy cả 3 xe tăng Nga với 3 viên đạn. Ba bó đuốc đẩm máu tô đậm thêm hình ảnh của cuộc chạm trán nhanh chóng và chết chóc.